Thích Minh Quang
LỜI ĐẦU SÁCH
Tích phúc cải mệnh là sách ghi lại lời gia huấn của Viên Liễu Phàm đời Minh Trung Quốc, mục đích ông dạy cho con trai là Viên Thiên Khải biết được chân tướng vận mệnh, phân biệt tiêu chuẩn thiện ác, nắm vững phương pháp cải ác làm lành cho đến những ứng nghiệm của việc hành thiện, tích đức, khiêm tốn,..Câu chuyện này đều là người thật việc thật, và đạo lý nói đến được nghiệm chứng bằng chính kinh nghiệm cải đổi vận mệnh của tác giả là Viên Liễu Phàm. Đây thật là một quyển sách quý, có ích cho thế đạo nhân tâm, chuyển hóa lòng người, xây dựng xã hội an lạc.
Hy vọng rằng những ai được đọc, được nghe sẽ học theo tinh thần tích phúc cải mệnh của Liễu Phàm tiên sinh, cải đổi những điều không tốt và sang tạo một tương lai tươi sang cho mình, cho đất nước cũng như toàn thể nhân loại.
CHƯƠNG MỘT
MÔN HỌC LẬP MỆNH
Lập mệnh chính là sang tạo ra vận mệnh, không bị vận mệnh trói buộc. Chương “ Lập mệnh” này chính là bàn đến cái học lập mệnh, giảng giải đạo lý an than. Viên Liễu Phàm tiên sinh đã đem kinh nghiệm bản than cùng nhiều nghiệm chứng trong việc cải đổi vận mệnh để dạy cho con trai. Ông muốn con trai mình là Viên Thiên Khải không nên bó tay trước vận mệnh mà phải gắng hết sức cải đổi vận mệnh bằng cách hành thiện, đoạn ác, như người xưa nói : “ Đừng chê điều thiện nhỏ mà không làm, đừng khinh điều ác nhỏ mà làm”. Nếu làm được như vậy, nhất định sẽ cải đổi vận mệnh:” Đoạn ác tu thiện dứt trừ tai ương, phúc thọ miên trường”. Đây chính là nguyên lý cải đổi vận mệnh.
Cha thủa nhỏ mất cha sớm. Bà nội bảo cha bỏ học, không nên đi theo đuổi công danh mà đổi học ngành y làm thầy trị bệnh. Bà nội bảo:
Học nghề thuốc vừa có thể kiếm tiền nuôi than vừa có thể cứu giúp người khác. Nếu y thuật đến mức cao minh cũng có thể trở thành y sư danh tiếng. Đây chính là tâm niệm của cha con khi còn sinh tiền.
Về sau cha ở chùa Từ Vân tình cờ gặp được một ông lão tướng mạo phi phàm, râu dài phấp phới, có vẻ tiên phong đạo cốt. Cha cung kính vái chào. Ông lão bảo:
Ông là người trong chốn quan trường năm sau có thể đi thi, bước vào hàng tri thức, thế tại sao không chịu đi học?
Cha trả lời vì ý của bà nội muốn cha bỏ học khoa cử để theo đuổi ngành y. Kế đó cha lại hỏi tính danh, nơi cư trú của cụ, cụ đáp:
Ta họ Không, người Vân Nam, được chân truyền của Triệu Khương Tiết tiên sinh, người tinh thông về dịch số Hoàng Cực. Tính theo số định, ta phải truyền môn dịch số này cho ông.
Do đó cha đưa vị tiên sinh này về nhà, thưa lại mọi việc với bà nội. Bà nội bảo cha phải tiếp đãi cụ chu đáo. Lại còn dạy rằng:
Vị tiên sinh này tinh thông dịch số vận mệnh. Vậy con thử nhờ cụ tính cho một quẻ xem sao. Thử coi có linh nghiệm hay không?
Kết quả thật không ngờ, những việc trước đây, dù là việc nhỏ, Khổng tiên sinh cũng nói vô cùng chính xác. Cha nghe theo lời cụ, có ý định đi học lại nên bàn với người anh họ tên là Thẩm Xưng. Anh họ bảo:
Tôi có một người bạn than tên là Úc Hải Cốc mở lớp dạy học ở nhà Ức Hữu Phu. Tôi đưa cậu đến đó ở trọ theo học, rất tiện.
Từ đó cha bắt đầu theo tiên sinh Úc Hải Cốc học tập. Một lần, Khổng tiên sinh tính số cho cha, bảo:
Lúc ông chưa có công danh, còn là học sinh, thi Huyện đứng hạng mười bốn, thi Phủ đứng hạng bảy mươi mốt, thi Đề học đứng hạng chín.
Đến năm sau, cha đi thi ba nơi, thứ hạng quả nhiên đúng như lời Khổng tiên Sinh nói. Khổng tiên sinh lại tính cho cha một quẻ kiết hung họa phúc suốt đời. Cụ bảo:
Ông vào năm nào đó sẽ thi đậu hạng mấy, vào năm nào đó sẽ bổ chức Lãm sinh, vào năm nào đó lên chức Cống sinh, và năm nào đó được chọn làm Huyện trưởng một huyện thuộc tỉnh Tứ Xuyên. Làm chức Huyện trưởng được ba năm rưỡi thì từ quan về quê. Năm ông năm mươi ba tuổi, vào giờ sửu ngày mười bốn tháng năm, ông sẽ từ trần tại nhà. Tiếc rằng số của ông không có con trai.
Những lời này cho đều ghi lại và nhớ kỹ trong lòng. Từ đó về sau, mỗi khi thi cử, thứ hạng đều đúng như lời Khổng tiên sinh đã đoán. Chỉ có điều cụ đoán số thóc mà cha lĩnh khi làm chức Lẫm sinh là chin mươi mốt thạch năm đấu, sau đó mới thăng chức. Không ngờ khi mới nhận được bảy mươi mốt thạch thóc, quan Học đài là Đồ tong sư phê chuẩn cha được bổ chức Cống sinh. Cha nghĩ thầm trong bụng: “ Khổng tiên sinh đoán số cũng có chỗ không linh nghiệm”.
Không ngờ sau đó giấy phê chuẩn thăng chức của cha bị quan Học đài thay thế là Dương tông sư bác bỏ, không cho làm chức Cống sinh. Mãi đến năm Đinh Mão, Ân Thu Minh tông sư xem bài dự thi tuyển của cha thấy không được chấm đậu nên lấy làm tiếc, than rằng:
Năm bài văn làm trong quyển này khác nào tấu điệp dâng lên cho vua. Người có học thức như thế này lẽ nào lại để cho mai một đến già?
Do đó ông dặn quan huyện đưa hồ sơ của cha lên chỗ của ông, phê chuẩn cho bổ chức Cống sinh. Trải qua sự trắc trở này, cha hưởng thêm một số thóc của chức Lẫm sinh, cộng với bảy mươi mốt thạch thóc đã ăn khi trước, vừa đúng chin mươi mốt thạch năm đấu. Sau khi xảy ra sự việc này, cha càng tin tưởng: Công danh tiến thoái thăng trầm của một đời người đề do số mệnh định sẵn. Sự thành đạt đến sớm hay muộn đều có thời gian nhất định. Do đó cha buông trôi, an phận, không còn có lòng tranh đấu gì nữa.
Khi được tuyển làm chức Cống sinh, theo quy định phải đến trường Quốc Tử Giám ở Bắc Kinh để học. Cha ở kinh thành một năm, suốt ngày ngồi yên, không nói chuyện, cũng không suy nghĩ, tính toán. Tất cả sách vở đều không xem đến. Đến năm Kỷ Tỵ, cha trở về học ở trường Quốc Tử Giám tại Nam Kinh, tranh thủ thời gian trước khi nhập học đến núi The Hà bái kiến thiền sư Vân Cốc. Ngài là một vị cao tăng đắc đạo.
Cha ngồi đối diện với thiền sư trong một gian thiền phòng suốt ba ngày ba đêm, không hề chợp mắt. Vân Cốc thiền sư hỏi:
Người ta sở dĩ không thể trở nên thánh nhân chỉ vì vọng niệm trong tâm khởi lên không ngừng. Ông tĩnh tọa ba ngày, ta chưa từng thấy ông khởi lên một niệm vọng tưởng, đó là vì sao?
Cha đáp:
Số mệnh tôi đã được Khổng tiên sinh xem rõ rồi. Lúc nào sinh, lúc nào chết, lúc nào đắc ý, lúc nào thất ý đều có số định sẵn, không cách gì thay đổi được. Vậy cho dù có nghĩ tưởng mong cái gì đi nữa cũng vô ích, do đó trong tâm cũng không có vọng niệm.
Vân Cốc thiền sư ngồi bảo:
Ta vốn cho rằng ông là bậc trượng phu xuất trúng, nào ngờ chỉ là kẻ phàm phu tục tử tầm thường!
Cha nghe xong không hiểu, bèn thỉnh giáo tại sao lại như thế. Vân Cốc thiền sư bảo:
Một người bình thường không sao tránh khỏi tâm ý thức vọng tưởng sáo trộn. Đã có tâm vọng tưởng không dừng thì phải bị âm dương khí số trói buộc. Đã bị âm dương khí số trói buộc, sao có thể bảo là không có số mệnh được? Tuy nói rằng có số, song chỉ người bình thường mới được số mệnh trói buộc. Nếu là một người cực thiện thì số mệnh không sao ảnh hưởng được đến họ. Bởi vì người cực thiện, cho dù số mệnh vốn có chủ định phải chịu khổ sở, nhưng nhờ làm được điều thiện cực lớn, sức mạnh của việc thiện lớn này chỉ có thể chuyển khổ thành vui, nghèo hèn đoản mệnh thành phú quý trường thọ.
Còn người cựu ác số, số mệnh cũng không ảnh hưởng được đến họ. Vì cho dù số mệnh họ chủ định được hưởng phúc, song vì họ gây tạo việc ác lớn, chính sức mạnh của việc ác này khiến phúc trở thành họa, giàu sang trường thọ trở nên nghèo hèn chết yểu.
Số mệnh của ông trong hai mươi năm được Khổng tiên sinh đoán trước, không từng biết cải đổi một chút, trái lại còn bị số mệnh buộc chặt. Một người bị số mệnh buộc chặt chính là phàm phu tục tử. Vậy ông phải là kẻ phàm phu tục tử hay sao?
Cha hỏi Vân Cốc thiền sư rằng:
Theo như thiền sư nói thì số mệnh có thể cải đổi được chăng?
Thiền sư trả lời:
Mệnh do tự mình tạo, phúc do chính mình tìm. Ta làm ác tự nhiên bị tổn phúc. Ta tu thiện được nhiên được phúc báo. Sách vở mà cổ nhân để lại xưa nay đã chứng minh tính chính xác của đạo lý này. Trong kinh Phật nói: “Muốn cầu phú quý được phú quý, muốn cầu con trai con gái được con trai con gái, muốn cầu trường thọ được trường thọ. Chỉ cần tu tạo việc lành thì số phận không sao trói buộc được chúng ta” Nói vọng ngữ là đại giới của nhà Phật, chẳng lẽ Phật và Bồ tát lại lừa dối chúng ta sao.
Cha nghe xong trong lòng vẫn còn chưa rõ, mới hỏi thêm rằng:
Mạnh tử từng nói: “Hễ cầu là được” là chỉ những gì ở trong lòng ta có thể làm được. Nếu không phải là những gì ở trong lòng thì làm sao có thể nhất định làm được? Ví như nói đạo đức nhân nghĩa, toàn là những thứ ở trong tâm chúng ta, ta lập chí làm một người nhân nghĩa đạo đức thì tự nhiên trở thành người nhân nghĩa đạo đức. Đây là cái mà ta có thể tận lực để cầu. Còn như công danh phú quý là cái không ở trong tâm, vốn ngoài thân chúng ta, nếu người khác chịu cho ta mới có thể lấy được, vậy ta làm sao để cầu?
Vân Cốc thiền sư bảo:
Lời nói của Mạnh Tử không sai, song ông giải thích lại sai. Ông không thấy Lục Tổ Huệ năng nói sao: “Tất cả các loại phúc điền đều quyết định trong tâm chúng ta. Phúc không lìa tâm, ngoài tâm không có phúc để cầu”. Cho nên trồng phúc hay gieo họa đều do nơi tâm chúng ta. Chỉ cần từ tâm mình đi cầu phúc, không có gì mà không cảm ứng ra.
Nếu biết từ tâm mình mà cầu thì không những cầu được nhân nghĩa đạo đức trong lòng mà công danh phú quý bên ngoài cũng cầu được. Đó gọi là trong ngoài đều đều được. Nói cách khác, dùng cách gieo trồng ruộng phúc để cầu thì nhân nghĩa, phúc lộc chắc chắn sẽ được.
Một người số mệnh có công danh phú quý, cho dù không cầu cũng có; còn như số mệnh không có công danh phú quý, cho dù có cầu cũng vô ích. Cho nên, chúng ta nếu không biết kiểm điểm xét lại mình, chỉ hướng ngoài tìm cầu công danh phú quý một cách mù quáng thì không chắc chắn có được vì nó còn lệ thuộc vào phúc báo sẵn có của mình. Đó là khế hợp với ý hai câu nói của Mạnh Tử: “ Cầu phải có đạo lý, còn được hay không là do số mệnh”.
Phải biết rằng, cho dù ta cầu mà được thì đó cũng là phúc báo sẵn có của chính chúng ta, mà không phải chỉ do cầu mà có hiệu nghiệm! Cho nên cái gì đáng cầu mới cầu, không nên cầu một cách vô nguyên tắc, không có đạo lý.
Nếu như phúc báo không có mà khăng khăng muốn cầu thì không những công danh danh phú quý cầu không được mà còn vì tâm tham cầu quá đáng, không có mức độ, bất chấp thủ đoạn, nên đánh mất cả nhân nghĩa đạo đức trong tâm, Như vậy chẳng phải trong ngoài đều mất tất cả sao? Vì vậy cầu mà không có đạo lý là vô ích.
Viên Cốc thiền sư tiếp đó hỏi:
Khổng tiên sinh đoán số mệnh cả đời của ông như thế nào?
Cha thuật lại tường tận những gì Khổng tiên sinh đã tính, vào năm nào thi đậu hạng mấy, năm nào làm quan, bao nhiêu tuổi mất.. Viên Cốc thiền sư bảo:
Ông tự suy xét xem, mình có thể thi đậu được công danh không? Có thể có con trai hay không?
Cha xét lại những việc làm của mình đã qua, suy nghĩ rất lâu mới trả lời:
Tôi không có phúc tướng nên biết phúc báo không có bao nhiêu; lại không biết tích công đức, làm việc thiện để vun bồi phúc báo. Lại thêm tôi không biết nhẫn nại, không chịu gánh vác những việc phức tạp, nặng nề. Tôi lại có tính hẹp họi, nói năng tùy tiện, ai làm gì sai không thể bao dung. Có lúc tôi còn tự cao tự đại, đem tài năng, trí thức của mình ra lấn lướt người khác. Những biểu hiện trên là tướng bạc phúc, làm sao có thể thi đậu được công danh?
Sạch sẽ là đức tính tốt, song nếu quá mức sẽ trở thành tính khí khó chịu. Nên người xưa bảo: Chỗ nào nhiều phân rác, cây cối lại tốt tươi; nơi nào nước quá sạch, tôm cá không thể sống. Tính tôi sạch sẽ quá mức, thành ra mọi người xa lánh. Đây là nguyên nhân thứ nhất tôi không có con trai.
Vạn vật phải nhờ ào anh dương quang ấm áp, gió mưa mát mẻ thấm nhuần mới sinh trưởng được. Tính tôi lại nóng nảy giận hờn, không có hòa khí tươi mát làm sao có thể sinh trưởng được con trai? Đây là nguyên nhân thứ hai.
Nhân ái là cội rễ của sự sống. Nếu tâm tàn nhẫn, không có từ bi thì khác nào trái cây không được hạt, làm sao nảy mầm mọc thành cây được? Cho nên người xưa bảo: Tàn nhẫn là gốc của tuyệt tự. Tôi chỉ biết yêu tiếc danh tiết của mình, không chịu hi sinh bản thân để hành toàn cho người khác, không làm điều thiện, tính công đức. Đó là nguyên nhân thứ ba tôi không có con trai.
Nói nhiều dễ dàng hại đến khí. Tôi lại nhiều lời nên than thể không được khỏe mạnh, làm sao mà có được con trai? Đây là nguyên nhân thứ tư tôi không có con trai.
Người ta sống lại nhờ tinh, khí, thần. Một người tinh lực không đầy đủ, cho dù sinh ra con trai cũng không được trường thọ. Đây là nguyên nhân thứ năm tôi không có con trai.
Người ta ban ngày không nên ngủ, ban đêm không nên thức. Tôi thường ngồi suốt đêm, không chịu ngủ sớm. Đó là không biết bảo dưỡng nguyên khí tinh thần. Đây là nguyên nhân thứ sáu tôi không có con trai. Ngoài ra còn có nhiều sai lầm, không sao nói hết.
Vân Cốc thiền sư bảo:
Ông như vậy không có được công danh mà nhiều thứ khác cũng không có được. Nên biết có phúc hay không phúc đều do tâm tạo ra. Người có trí tuệ biết rằng đó là tự mình làm, tự mình nhận lấy kết quả. Người không hiểu biết lại đổ thừa cho vận mệnh.
Ví dụ như trên thế gian có người giàu sang, sản nghiệp ngàn lạng vàng, đó là họ có phúc báo ngàn lạng vàng. Người có sản nghiệp trăm lạng vàng, đó là họ có phúc báo trăm lạng vàng. Còn người nghèo cùng chết đói, là họ có quả báo chết đói. Ví dụ như người lành tích đức, trời sẽ cho họ hưởng phần phúc báo tương ứng; kẻ ác tạo tội; trời sẽ bắt họ chịu tai họa tương ứng.
Trời đây chính là Ta ở tiền kiếp, Ta ngày nay là Ta của tiền kiếp đã kết tinh thành, Ta ngày nay vừa là vật thọ tạo của ta ngày trước và đồng thời cũng là đấng tạo hóa (Trời) của Ta sau này. Cái mà mọi người quen gọi là số mệnh thực sự chỉ là Nghiệp, tự ta đã tạo ra ( tự nghiệp) chứ không phải là một quyền lực nào ngoài mình tạo ra cả. ta là chủ nghiệp của Ta. Ta chính là người tạo ra số mệnh của Ta và chỉ có Ta mới thay đổi được số mệnh của Ta. Tự mình tạo ra thì cũng tự mình thay đổi nó ( nếu muốn).
Theo nhà Phật, nghiệp quá khứ là nguyên nhân động lực của kiếp sống hiện tại. Nó chỉ huy tất cả. Thành ra con người giống như một bộ máy bị một định mệnh vô hình chi phối ( ta thường gọi là “số mệnh”). Động lực chính của sự tạo nghiệp là ý thức. Ý thức có một tác dụng vô cùng mạnh mẽ, nó chi phối tất cả mọi thứ khác, lại có quyền sáng tạo và thay đổi cả một cuộc đời của con người. Trong giai đoạn hiện tại, cá nhân phải gánh chịu tất cả những quả báo của nghiệp quá khứ ( túc nghiệp) và nghiệp hiện tại ( hiện nghiệp). Nhưng ý thức với sự phụ họa của các thức khác trong giai đoạn sống hiện tại lại cũng có quyền năng tạo nghiệp mới, để làm động lực cho sự phát sinh sinh mệnh sau này.
Hạnh phúc hay đau khỏ do chính con người tạo ra, không ai có quyền ban phúc giáng họa hoặc thưởng phạt ai cả. Chỉ có nhân quả nghiệp báo là quan tòa công lý vận hành quyết định số mệnh của Ta mà thôi.
Tiếp theo, Vân Cốc thiền sư mượn cái thấy của người thế tục để khuyên cha tích đức hành thiện:
Còn việc sinh con trai giống như chúng ta gieo hạt vậy. Nhân tốt sẽ gặp quả tốt, nhân xấu sẽ gặp quả xấu. Một người tích chứa công đức được một trăm đời thì con cháu trong một trăm đời gìn giữ phúc báo của họ. Một người tích chứa công đức được mười đời thì có con cháu trong mười đời gìn giữ phúc báo của họ. Tích chứa công đức được hai ba đời thì có con cháu trong hai ba đờigìn giữ phúc báo của họ. Còn người chỉ được hưởng phúc trong một đời, đến đời sau lại tuyệt hậu, đó là công đức chứa chỉ bấy nhiêu. Song nghiệp tội của người đó có lẽ lại không ít!
Ông đã tự biết khuyết điểm của mình thì phải hết lòng hết sức cải đổi những tính xấu, biểu hiện bạc phúc khiến không được công danh và có con trai. Ông nhất định phải làm lành tích đức, đối với người phải hòa khí từ bi, bao dung độ lượng và quý tiếc gìn giữ tinh thần của mình.
Hãy coi tất cả những việc trước kia như hôm qua đã chết đi; còn những việc về sau như hôm nay mới sinh ra. Sống với cuộc đời bằng trái tim từ bi, yêu thương mọi người, mọi loài luôn sống hạnh phúc trọn vẹn trong hiện tại. Làm được việc này là ông đã có một sinh mệnh mới. Đó là sinh mệnh nhân nghĩa đạo đức. Thân huyết nhục của chúng ta còn có khí số nhất định, song còn shinh mệnh nhân nghĩa đạo đức không bị số mệnh trói buộc, có thể cảm đến thiên lý. Thiên Thái Giáp trong “Kinh Thư” nói:” Trời giáng xuống tai họa còn có thể tránh; tự mình gây ra tai họa thì không thể tránh, ắt phải chịu khổ.”
“ Kinh Thư” cũng nói: “ Người ta phải thường xét nghĩ đến hành vi của mình có hợp với đạo trời hay không? Nếu hợp với đạo trời thì phúc báo không cầu cũng tự nhiên đến”. Cho nên phúc hay họa đều là do mình. Thiên lý hay Đạo trời được nói đến đây chính là luật nhân quả.
Không tiên sinh tính số cho ông bảo không có công danh, lại thêm không con thừa tự. Tuy là bảo số trời định sẵn, song vẫn có thể cải đổi. Ông chỉ cần mở rộng lòng đạo đức nhân nghĩa sẵn có, gắng sức làm lành, tích chứa âm đức. Đó là ông tự mình tạo ra phúc báo cho mình, người khác muốn cướp muốn giật cũng không được, làm sao mà không hưởng được phúc?
“ Kinh Dịch” cũng vì những người giữ lòng nhân đức mà tính trước nên đi hướng nào sẽ kết tường, tránh được những việc hung hiểm, những người hung hiểm , những chỗ hung hiểm.
Nếu nói nhất định vận mệnh không thể thay đổi thì làm sao có thể đến được chỗ kiết tường, tránh nới hung hiểm? Chương mở đầu của “Kinh Dịch” đã nói:” Gia đình nào hành thiện, ắt sẽ dư nhiều phúc báo, để lại cho con cháu”. Đạo lý này ông thực sự có tin không?
Cha tin lời Vân Cốc thiền sư, đảnh lễ tạ ơn và theo lời chỉ giáo. Cha đồng thời đem những việc sai lầm tội lỗi lúc trước, không luận là lớn nhỏ nặng nhẹ, ra trước bàn thờ Phật thành tâm sám hối. Cha cũng làm một bài kệ, trước hết tỏ lòng nguyện cầu có được công danh, kế đó phát nguyện làm ba ngàn việc thiện để báo đáp ân nghĩa của trời đất và công lao sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ.
Vân Cốc thiền sư nghe cha lập thệ làm ba ngàn việc thiện, liền đưa cho xem quyển sổ ghi lại việc tội hay phúc. Ngài dạy phải làm theo những lời dặn trong đó. Phàm những việc làm của mình, không luận là thiện hay ác, mỗi ngày đều phải ghi vào quyển sổ đó. Việc thiện thì phải ghi vào phần phúc, còn việc ác thì phải ghi vào phần tội.
Song việc ác phải xem là lớn hay nhỏ, có thể dùng phần việc thiện đã ghi để giảm trừ. Ngài còn dạy phải trì chú Chuẩn Đề, nhờ sức gia trì của chư Phật để giúp nguyện ước sớm thành tựu.
Như vậy vận mệnh là tự mình tạo lấy. Nếu phân tích tỉ mỉ để giảng thì dù giàu hay nghèo cũng không khác, đều phải làm theo đạo lý lập mệnh này. Khi giàu không thể cạy tiền cạy thế hống hách, hiếp đáp người khác mà phải khiêm cung, chia sẻ giúp đỡ mọi người. Như vậy, vận mệnh phú quý càng thêm phú quý và có thể bảo tồn lâu dài. Khi nghèo vẫn giữ khí tiết, không làm việc trái với lương tâm. Dù nghèo vẫn an phận thủ thường, làm một người lương thiện. Như vậy mới có thể chuyển đổi vận mệnh bần cùng thành vân mệnh phú quý. Cho nên, dù giàu hay nghèo đều phải bỏ ác làm lành, gieo trồng ruộng phúc.
Đoản mệnh hay trường thọ cũng vậy. Không nên cho rằng mình vắn số, sống chẳng bao lâu mà tranh thủ hưởng thụ, mặc tình làm ác, vào đường đọa lạc. Nên biết, vì nghiệp báo mình phải đoản mệnh, nên gắng sức làm lành, hy vọng đời sau sẽ được trường thọ. Như vậy có thể đời này được sống lâu thêm.
Còn người trường thọ cũng không nên ỷ nại mà mặc sức tạo ác, gian dối phạm pháp, đắm mê tửu sắc. Nên biết trường thọ có được không dễ, phải trân trọng, làm thêm điều lành để giữ gìn phúc báo trường thọ này. Hiểu được đạo lý này mới có thể cải đổi đoản mệnh thành trường thọ; mệnh trường thọ càng thêm dài lâu, càng thêm khỏe mạnh.
Người ta sống trên đời, việc hệ trọng nhất là sống và chết. Nếu có thể xem đoản mệnh và trường thọ không khác thì tất cả thuận cảnh, nghịch cảnh, giàu sang, nghèo hèn đều bao quát trong đó.
Mạnh Tử nói cái học về lập mệnh chỉ bàn đến đoản mệnh và trường thọ mà không nói đến giàu nghèo, thành đạt và khốn cùng cũng chính vì lý do này.
Vân Cốc thiền sư lại bảo:
- Mạnh Tử có câu “ Tu thân để đợi đó” là bảo: Tự mình phải luôn luôn tu tâm dưỡng đức, không nên làm ác gây tội dù là mảy may. Còn như vận mênh có cải đổi được hay không, đó là tùy thuộc vào việc tích đức nhiều ít, hợp hay không hợp đạo trời.
Nói đến chữ “ tu thân” là bảo hướng vào trong tâm sửa đổi những sai lầm, tội lỗi của chúng ta, người tu chỉ nghĩ điều lành, nói lời lành, làm việc lành, thường tự xét lỗi mình, không bàn lỗi người khác. Còn bảo “đợi” là chỉ mọi người phải đợi đến công phu tu thân sâu dày, phúc báo vun đắp đầy đủ, tội nghiệp tương ứng tiêu trừ, thì vận mệnh sẽ tự nhiên chuyển đổi, trở nên tốt đẹp. Không nên có tư tưởng mong muốn những gì vượt quá phận mình, để cho vọng tâm, dục tưởng làm mờ ám tâm trí, mà phải giữ tâm thanh tịnh, buông xuôi mọi vọng niệm sinh diệt. Tâm như tấm gương, thấy rõ ràng tất cả nhưng không bị ngoại cảnh tác động, thấy cảnh mà lìa khỏi cành, thấy tướng mà lìa khỏi tướng, trong chỗ nghĩ tưởng mà không nghĩ tưởng, thấy tất cả các pháp mà tâm không đắm nhiễm. Đến trình độ này sẽ tìm lại được tự tính thanh tịnh, trong sáng có sẵn trong mỗi người và chỉ dùng tâm này là đủ thành Phật. Song công phu này phải kinh qua thực hành mới lĩnh hội được.
Cha ban đầu tên hiệu là Học Hải, song từ ngày đó trở đi đổi hiệu là Liễu Phàm. Bởi vì sau khi hiểu rõ đạo lý lập mệnh, cha không muốn sống như kẻ phàm phu mà phát nguyện quét sạch kiến giải phàm phu, nên gọi là Liễu Phàm.
Từ đó về sau, cả ngày cha đều chánh niệm tỉnh giác, cẩn thận từ lời nói, việc làm cho đến ý nghĩ. Cha cảm thấy mình như thay đổi hẳn, trở thành con người khác.
Lúc trước cha sống tùy tiện, hồ đồ, không biết kiềm chế. Đến nay trở nên cẩn thận, cung kính, cảnh giác những điều bất thiện.
Cho dù trong nhà, buổi tối không có ai đi nữa, cha cũng không giám tùy tiện vì biết có trời đất, quỷ thần soi xét. Gặp người ganh ghét, hủy bang, cha vẫn an nhiên, không chấp nhất, tranh luận với họ.
Năm thứ hai sau khi tham kiến Vân Cốc thiền sư, cha đến bộ Lễ thi cử. Khổng tiên sinh đoán số cha sẽ đậu hạng ba, không ngờ lại đậu được hạng nhất. Lời của Khổng tiên sinh bắt đầu hết linh nghiệm. Khổng tiên sinh không nói cha sẽ đậu cử nhân, song trong ký thi Hương mùa thu, cha lại thi đậu cử nhân. Đây là do làm phúc tích đức khiến số mệnh thay đổi. Vân Cốc thiền sư bảo: “ Vận mệnh có thể thay đổi”. Lời nói này đến nay đã được chứng nghiệm, khiến cha càng thêm tin tưởng.
Cha tuy sửa đổi lỗi lầm khá nhiều song khi gặp việc nên làm vẫn không thể chuyên tâm nhất ý làm. Cho dù làm vẫn còn miễn cưỡng, không được tự nhiên. Cha tự xét lại thấy lỗi lầm vẫn còn rất nhiều.
Ví dụ như thấy việc thiện, tuy chịu làm, song không mạnh dạn nỗ lực làm. Hoặc là gặp lúc cứu người, trong lòng vẫn còn chần chừ, do dự không kiên quyết thực hiện. Việc thiện tuy có làm được song lại hay nói những lời lầm lỗi. Khi tỉnh táo còn có thể tự chủ, song khi say rượu lại phóng túng, làm càn. Cha tuy làm lành có tích chứa chút công đức, song lỗi lầm vẫn còn rất nhiều. Nếu lấy công đức để trừ đi lỗi lầm e còn chưa đủ. Thời giờ chỉ luống uổng qua đi.
Từ năm Kỷ Tị nghe lời của Vân Cốc thiền sư, cha phát nguyện làm ba ngàn việc thiện, đến năm Kỷ Mão, đã hơn mười năm mới hoàn thành ba ngàn việc thiện này.
Lúc đó cha vừa cùng Lý Tiệm An tiên sinh vừa từ Quan ngại trở về Quan nội, chưa kịp đem ba ngàn việc thiện này ra hồi hướng. Đến năm Canh Thìn cha trở về phương Nam, mới thỉnh hai vị đại lão Hòa thượng đức độ là ngài Tính Không và Tuệ Không, mượn thiền đường Đồng Tháp để hoàn thành tâm nguyện hồi hướng này. Lúc đó, cha lại khởi lên tâm nguyện cầu sinh con trai, và phát đại nguyện làm ba ngàn việc thiện lớn. Đến năm Canh Tị sinh ra con, đặt tên là Thiên Khải.
Cha mỗi khi làm được một điều thiện đều ghi lại. Mẹ con không biết viết chữ, mỗi khi làm được một việc lành, như cho người nghèo cơm ăn, hay phóng sinh… đều lấy bút long ngỗng, in một khuyên tròn màu đỏ lên lịch, đại ý ngày đó làm được mười mấy việc thiện.
Như thế mãi đến tháng tám năm Quý Mùi mới hoàn thành ba ngàn điều thiện đúng như nguyện. Cha lại thỉnh các vị như hòa thượng Tính Không…về nhà làm lễ hồi hướng. Đến tháng chin năm đó, cha lại khởi lên lời nguyện thi đậu Tiến sĩ và phát nguyện làm một vạn điều thiện để hồi hướng. Đến năm Bính Tuất lại thi đậu Tiến sĩ. Bộ Lại bổ cho cha làm chức Huyện trưởng huyện Bảo Để đương khuyết. Lúc cha làm huyện trưởng huyện Bảo Để, có chuẩn bị một quyển sổ kẻ ô để trống. Quyển sổ này cho gọi nó là “Sổ tay trị tâm”. Nói trị tâm là e tâm mình khởi lên tà niệm, dùng phương tiện này để đối trị.
Mỗi ngày thức dậy vào lúc sáng sớm, lúc thăn đường xét xử, cha đều cho người để quyển sổ trị tâm này trên bàn làm việc. Mỗi ngày, việc lành hay việc ác dù là rất nhỏ cũng ghi vào đó. Bà nội thấy cha làm việc thiện không nhiều, chau mày bảo:
- Mẹ lúc trước ở nhà giúp con làm việc thiện cho nên lời nguyện ba ngàn việc thiện có thể hoàn thành. Nay con phát nguyện làm mười ngàn việc thiện, trong nha môn thực khó mà thực hiện được, biết đến bao giờ mới làm xong đây?
Sau đó, vào một đêm, cha bỗng nằm mơ thấy một vị thiện thần xuất hiện. Cha bèn đem việc khó mà hoàn tất mười ngàn việc thiện này thưa lại với thiện thần. Thiện thần bảo:
- Chỉ một việc ông làm Huyện trưởng giảm thuế ruộng đất cho dân là đủ để bù vào mười ngàn việc thiện.
Thì ra, ruộng của huyện Bảo Để mỗi mẫu thu thuế là hai đồng ba hào bảy xu. Cha thấy đúng là nhân dân chịu thuế quá nặng nên xin giảm thuế tất cả số ruộng trong huyện, mỗi mẫu chỉ đóng thuế một đồng bốn hào sáu xu. Cha cảm thấy thật là lạ, tại sao việc này thiện thần lại biết được. Vả lại cũng không ngờ, sao việc này có thể đủ bù vào mười ngàn việc thiện?
Đúng lúc đó có thiền sư Huyễn Dư từ núi Ngũ Đại đến huyện Bảo Để. Cha thưa lại chuyện trong mộng với thiền sư và hỏi có tin được chuyện này không. Huyễn Dư thiền sư đáp:
- Làm việc thiện phải có tâm chân thành khẩn thiết, không thể giả dối qua loa hoặc có tâm cầu báo đáp. Như vậy cho dù một việc thiện cũng có thể bằng mười ngàn việc thiện. Huống chi ông giảm thuế cho toàn huyện, nông dân toàn huyện đều được hưởng ân huệ này. Cả ngàn vạn người nhờ đó mà giảm đi nỗi khổ vì thuế mà nặng nề, đó thực là phúc báo to lớn.
Cha nghe xong lời dạy của thiền sư, liền đem tiền bạc bổng lộc của mình ra, nhờ thiền sư cúng trai tăng mười ngàn vị trên núi Ngũ Đài và xin hồi hướng.
Khổng tiên sinh tính số mạng cho cha bảo cha sẽ mất năm năm mươi ba tuổi. Cha tuy không cầu trời cho sống thọ song khi cha tuổi năm mươi ba lại không có chút đau bệnh gì. Năm nay cha đã sáu mươi chín tuổi rồi. “ Kinh Thư” nói: “ Mệnh con người không có nhất định, đều do tự mình tạo”. Những lời này không sai chút nào. Cha do đó mới biết, phàm nói đến họa phúc đều do tự mình tạo ra. Đó là lời của thánh hiền. Còn như bảo họa phúc do trời chủ định, đó là lời nói của kẻ phàm phu.
Vận mệnh của Viên Thiên Khải con rồi sẽ như thế nào. Song cho dù là vinh hoa phú quý, con cũng phải giữ tâm như lúc thất trí nghèo hèn. Cho dù gặp may mắn tốt đẹp, con cũng phải giữ lòng như lúc trắc trở khó khăn. Cho dù trước mắt có dư ăn dư mặc, con cũng phải cần kiệm như lúc thiếu thốn nghèo hèn. Cho dù được người ta yêu thích, kính trọng, con cũng phải luôn khiêm tốn, cẩn trọng. Cho dù gia thế có danh vọng đến đâu, con cũng phải thấy mình thấp kém. Cho dù học vấn có cao thâm bao nhiêu, con phải thấy mình còn thô thiển.
Cách sống âu sắc này là từ phản diện để nhìn vấn đề. Nếu biết khiêm cung như vậy, đạo đức dần dần nâng cao, phúc báo cũng tự nhiên tăng trưởng.
Xa thì con nên truyền nối và mở rộng công đức của tổ tiên; còn gần thì phải biết hiết kính cho cha mẹ. Trên thì con nên báo đáp ân huệ của trời đất; còn dưới thì phải tạo dựng hạnh phúc cho gia đình. Ngoài thì con nên cứu tế cấp nạn cho người nghèo khổ, bệnh tật, hoạn nạn, trong thì con phải luôn đề phòng niệm tưởng tà ác.
Sáu cách trên là từ chánh diện để khẳng định vấn đề. Nếu con thường tự xét lại mình để tìm những sai lầm, nhất định sẽ trở thành bậc chính nhân quân tử.
Người ta mỗi ngày cần phải tự kiểm điểm lỗi lầm của mình mới có thể sửa đổi mỗi ngày. Bằng không, cứ ngỡ là mình không có lỗi lầm, không chịu tu sửa, không làm sao tiến bộ được. Người tài giỏi thông minh trên thế gian không ít, song phần lớn lại không biết dụng công tu dưỡng đạo đức, không biết dụng công xây dựng vận mệnh tốt đẹp, đều chỉ vì thói lần lữa qua ngày, đến đâu hay đến đó, không có chí cầu tiến mới làm lỡ cả một đời của họ.
Những lời Vân Cốc thiền sư dạy về đạo lý lập mệnh thật là tinh thâm nhất, chân chính nhất. Cha mong con đọc và suy nghĩ kỹ, lại phải tận tâm tận lực thực hành.
CHƯƠNG HAI
SỬA ĐỔI LỖI LẦM
Người ta không phải mới sinh ra đã là Thánh là Hiền nên làm sao tránh được gây tạo lỗi lầm? Khổng Tử nói: “ Có lỗi lầm không sợ sửa đổi, là việc lành không gì lớn hơn”. Cho nên Liễu Phàm tiên sinh sau khi giảng đạo lý lập mệnh xong lại bàn đến phương pháp sửa đổi. Ông trình bày một cách tường tận để dạy con mình là Viên Thiên Khải. Lỗi lầm nhỏ còn phải sửa đổi, huống chi là tội ác lớn, đương nhiên quyết không thể phạm.
Vào thời Xuân Thu, các quan lớn của các nước thường đoán việc kiết hung họa phúc của một người nào đó thông qua ngôn ngữ hành vi của họ và kết quả rất linh nghiệm. Điều này có thể thấy được qua sách “Tả Truyện” và “ Quốc Ngữ”. Phàm những điềm báo kiết tường hay hung hiểm đều do mầm mống trong tâm phản ứng ra ngoài. Những điềm kiết hung này còn thể hiện qua cử chỉ của người đó nữa. Nếu một người nhân hậu, cử chỉ của họ sẽ chững chạc. Còn kẻ bạc ác thì cử chỉ sẽ tùy tiện.
Người sống nhân hậu thì thường được hưởng phúc, kẻ bạc ác nhất định sẽ gặp họa. Người bình thường thiếu hiểu biết, không đủ trí tuệ để xét thấy việc này nên bảo họa phúc không nhất định, không sao biết trước được.
Một người có thể sống hết sức thành thực, không một chút giả dối thì tâm họ khế hợp đạo trời. Do đó, nếu đem tâm chân thành ra đối đãi với người thì phúc báo tự nhiên sẽ đến. Cho nên, xét một người nào đó, chỉ cần nhìn thấy họ toàn làm việc thiện thì biết trước rằng phúc của họ sắp đến. Trái lại, xét một người mà thấy hành vi của họ toàn làm điều ác thì biết rằng họ sắp gặp họa.
Người ta muốn tránh họa được phúc phải tự mình sửa lỗi trước khi làm thiện. Một người lập chí sửa đổi lỗi lầm cần có:
Thứ nhất là phải có lòng sỉ ( lòng xấu hổ):
Chúng ta nên suy nghĩ: Thánh hiền với ta đều do cha mẹ sinh ra nhưng để lại tiếng thơm muôn đời, làm gương sáng cho hậu thế. Còn chúng ta lại uổng phí một đời, hàng ngày chìm đắm trong vòng danh lợi, có khi còn làm việc bất nghĩa, tưởng là mọi người không biết nên chẳng lấy làm thẹn.
Đó là vì chúng ta quá đam mê hưởng thụ, bị hoàn cảnh vật dụng bên ngoài chi phối, lén làm những việc không nên làm. Càng ngày chúng ta càng trầm luân trong bể dục, không khác gì cầm thú, mà tự mình chẳng biết chẳng hay.
Mạnh Tử nói: “ Việc lớn nhất, quan trọng nhất của một người không gì hơn chữ sỉ”. Người có lòng sỉ có thể trở thành thánh hiền, không có lòng sỉ dần dần sẽ trở lên cầm thú.
Thứ hai phải có lòng kính sợ
Ta nên biết rằng, trên có trời đất, giữa có quỷ thần. Hành động mờ ám của ta tuy kín đáo, nhưng đều có trời đất quỷ thân soi xét. Nếu ta gây tạo tội nặng sẽ rước lấy tai họa, gây tạo tội nhẹ sẽ tổn phúc giảm đức. Chúng ta có giấu được người trần làm điều sai trái, qua mặt pháp luật, nhưng không sao qua mắt được chư thiên. Việc ác của chúng ta đối với họ như soi kính, đều hiện ra rõ ràng không sót. Chúng ta khởi tâm động niệm như thế nào, các vị ấy đều biết rõ. Cho nên, mình biết rõ tâm niệm hành vi của mình như thế nào, chư thiên cũng biết rõ như vậy.
Nếu chẳng may hành vi xấu xa của chúng ta bị người khác biết được thì chẳng phải mình mất hết giá trị, bị người ta xem thường phỉ nhổ hay sao?
Nhưng đối với người biết ăn năn hối cải, cho dù phạm tội lớn đến đâu, đều có thể sám hối. Thưở xưa có người cả đời làm ác, đến khi lâm chung tỉnh ngộ ăn năn, khởi nên niệm lành rất lớn, liền được an ổn vãng sinh.
Tuy nói có lỗi chỉ cần biết ăn năn cải đổi là được, song tuyệt đối không được vì thế mà ỷ lại, cho rằng thường phạm lỗi không sao. Người như thế có tâm phạm lỗi, tội càng sâu nặng hơn.
Trong thế gian bất tịnh này, vạn vật đều chuyển hóa vô thường, tấm thân huyết nhục này nay còn mai mất không sao liệu trước được. Chằng phải một hơi thở ra mà không hít vào là đã qua đời khác sao? Đến lúc đó, có muốn sửa đổi lỗi lầm cũng không sao kịp nữa. Khi cái chết đến, mọi thứ đều bỏ lại, chỉ có nghiệp tội đi theo chúng ta mà thôi.
Do đó kẻ làm ác báo ứng ở dương gian là phải chịu tiếng xấu trăm ngàn năm, cho dù có con hiếu cháu hiền cũng không sao rửa sạch được vết nhơ này. Còn quả báo đời sau là phải trầm luân trong địa ngục, chịu vô lượng vô biên khỏ não, đọa đày trong ngàn muôn ức kiếp. Lúc đó dù gặp được Phật, Bồ tát, thánh hiền, cũng không cách nào cứu chữa ta được. Như vậy không đáng sợ sao?
Thứ ba là phải có lòng can đảm
Người có lỗi mà không sửa vì lần lữa qua ngày nên đã sai rồi lại càng sai thêm. Khi biết mình có lỗi phải có lòng can đảm để sửa, không thể trì hoãn. Không nên ngày nay lại hẹn đến ngày mai, mai lại hẹn đến ngày mốt, cứ thế kéo dài, lần lữa đến chết. Lỗi lầm nhỏ hãy xem như gai đâm vào xương thịt, để lâu một ngày là nhức nhối một ngày, nên phải gấp rút nhổ ra. Lỗi lầm lớn hãy xem như rắn độc cắn phải, để chậm một giây là nguy hiểm đến tính mạng một giây. Như kẻ Ích trong “ Kinh Dịch” nói: “ Gió thổi sấm nổ, vạn vật sinh trưởng”. Đây là dụ cho người đổi ác làm lành, được ích lợi lớn như vạn vận được mưa thuận gió hòa mà sinh trưởng tốt tươi.
Một người lập chí sửa đổi lỗi lầm, nếu có đầy đủ lòng xấu hổ, lòng kính sợ, lòng can đảm thì có thể lập tức sửa được lỗi lầm; như lớp băng mỏng mùa xuân gặp phải ánh dương quang, lo gì không tan rã!
Song sửa đổi lỗi lầm có ba góc độ dụng công. Một là từ trên thực tế để sửa đổi. Hai là từ trên đạo lý để sửa đổi. Ba là từ trên tâm niệm để sửa đổi. Do ba cách dụng công khác nhau, nên kết quả cũng khác nhau:
Từ trên thực tế sửa đổi lỗi lầm
Ví dụ như hôm qua sát sinh, hôm nay chấm dứt không sát sinh nữa. Hôm trước nổi giận mắng người, hôm nay bỏ qua không giận nữa. Đây là phương pháp chấm dứt lỗi lầm không tái phạm, bằng cách sửa đổi lỗi lầm khi sự việc đã phát sinh. Song sửa lỗi như vậy là miễn cưỡng mà làm, tuy qua được một lúc song mầm mống lỗi lầm vẫn còn trong tâm. Chỉ cần có cơ hội thích hợp là nó lại tái phát, đôi khi còn mãnh liệt hơn nữa. Người ta bảo tức nước vỡ bờ là vậy. Nên đây không phải là phương pháp sửa chữa lỗi lầm một cách triệt để.
Dựa trên đạo lý cải đổi lỗi lầm
Một người lập chí sửa đổi lỗi lầm, trước khi ngăn giữ không làm một điều sai quấy nào đó, phải hiểu rõ đạo lý vì sao ta không nên làm. Ví dụ như một người đối với lỗi lầm của việc sát sinh, trước hết anh ta phải nghĩ rằng: Đức hiếu sinh là đạo lý tự nhiên. Phàm là loại có sinh mệnh ai lại chẳng tham sống sợ chết. Thế mà ta lại giết loài vật để nuôi thân mình, thử hỏi trong tâm có yên ổn không? Những con vật mà ta cắt cổ, nhổ long, lột da, xào nấu…, chúng phải chịu bao đau đớn khổ sở lúc lâm chung, như vậy có phải tội lỗi lắm không? Ăn uống trên sự tước đoạt sinh mệnh, gây tạo khổ đau cho chúng sinh, song dù miếng ngon đến đâu một khi đã ăn rồi thì các thứ ấy đều thành cặn bã, chẳng còn lại thứ gì. Nếu biết rằng người ăn rau đậu, ăn chay cũng có thể no, cần chi phải nhất định làm tổn hại sinh mạng khác ( tạo tội sát sinh) mà bị giảm thiểu phúc báo của chính mình.
Lại suy nghĩ rằng: Làm người ai cũng muốn sống trong sự an vui hạnh phúc, không thích kẻ nào quấy rầy hoặc dùng bạo lực để gây thương tổn đến bản thân. Đó cũng là mong ước của mọi loài động vật. Đúng! Chỉ có thế thôi, an vui hạnh phúc và không bị ai quấy rầy sát hại. Tuy nhiên với sức mạnh và sự bất công của con người nói chung, lại tìm sự an vui hạnh phúc trên những đau khổ đọa đày của kẻ khác, thỏa lòng khoái khẩu trước những cái chết thê thảm của loài khác. Nếu đứng về phương diện bình đẳng giữa sự sống với nhau, thì hành động ấy quả thật là” cá lớn nuốt cá bé” hoặc “ mạnh được yếu thua”. Chúng ta cứ tưởng tượng một con gà đang vùng vẫy trước sức mạnh của con người. Họ đè cánh chúng, trói chân lại, nhổ lông, rồi kề dao vào cổ cứa.. cứa…ôi chao ghê quá!!! Máu chảy ra. Thử hỏi con gà ấy có đau khổ, oán thù kẻ cắt cổ nó không? Rồi ta hãy xét qua trường hợp này: Một gia đình nọ đang sống yên ấm, an vui hạnh phúc. Bỗng một hôm có toán cướp với vũ khí trong tay xông vào nhà cướp của và bắt con gái hãm hiếp. Người cha thấy vậy quá đau lòng nhào vào can ngăn và bị chúng dùng dao đâm chết. Trước thảm cảnh này vợ và con sẽ nghĩ gì? Có căm tức, oán thù bọn cướp ấy không? Nếu có thì làm gì bọn cướp được đây hay cũng đành cắn răng nhẫn chịu trước lưỡi dao, họng súng kia? Qua hai trường hợp ấy chúng ta thấy chỉ vì sức yếu nên con vật chịu cắt cổ trước sức mạnh của loài người giống như con người bất lực dưới sức mạnh của tập thể uy hiếp, họng súng dọa nạt. Thế nhưng cả hai trường hợp ấy đâu phải kẻ cô yếu không oán hờn mong ngày báo thù? Nếu xét về nhân quả, không sớm thì muộn hễ gây ác nhân sẽ gặp ác quả. “ Kinh pháp cú” Phật dạy: “ Người nào cầu hạnh phúc cho mình mà dùng dao gậy phá hoại hạnh phúc kẻ khác thì sẽ không bao giờ được hạnh phúc”.
Câu chuyện sau đây sẽ chứng minh điều ấy:
Ở Thượng Hải có người giàu có họ Bành. Ông nghiên cứu được món ăn rất hấp dẫn, mệnh danh là món “ quán miết giáp” (rót nước vào mai ba ba). Ông chế một chiếc nồi đất, trên vung có đục một cái lỗ nhỏ vừa bằng đầu con ba ba chui lọt. Rồi cho ba ba vào nồi nước đem đặt lên bếp đun. Dĩ nhiên một lúc sau nước nóng ba ba chịu không nổi phải tìm lối thoát và nó chỉ còn một cách duy nhất là cho cổ chui ra khỏi lỗ vung nồi, nhưng thân mình thì đâu dễ gì thoát khỏi. Khi đó ba ba chỉ biết há miệng chờ chết, thế là họ Bành đoàng hoàng ngổi đổ gia vị vào miệng ba ba rồi bịt kín nồi hầm nhừ thành một món ăn mà họ Bành cho là ngon nhất thế gian…Họ Bành thường ăn như vậy và thường làm trăm con để tiếp khách. Thế nhưng “ ác giả thì ác báo”. Một hôm họ Bành xảy ra hỏa hoạn, lúc ấy họ Bành đang say sưa trong giấc mộng sau một đại tiệc toàn là món miết giáp. Khi phát hiện ra hỏa hoạn, họ Bành tỉnh giấc thì đã muộn, lửa cháy xung quanh. Luống cuống, họ Bành tìm không ra chìa khóa cửa. Vì giàu có nên ông rất sợ bị bắt cóc và trộm cướp cho nên lúc nào cũng ở trong phòng kiên cố trên lầu, cửa sắt bao bọc vững chắc. Lửa cháy tứ tung kéo đến gần kề. Cùng đường họ Bành thấy một lối thoát duy nhất là chiếc cửa sổ, ông liền chui đầu qua song sắt, nhưng khốn nỗi thân hình to béo với cái bụng bự không thể lọt qua. Lúc ấy xe cứu hỏa tới,vì đầy khói đen nên không thấy họ Bành, cứ phun nước vào mặt mũi làm ông chết ngạt, Đồng thời trong phòng lửa cháy dần dần thui sống ông trông thật thê thảm. Nhìn cảnh ấy ai cũng lien tưởng đến món miết giáp. Trước kia ông hành hạ những con ba ba vô tội hết sức tàn ác, thì bây giờ ông cũng bị chết y hệt những con ba nạn nhân của ông. Thật là luật nhân quả lúc nào cũng cân xứng.
Qua chuyện trên ta thấy, lúc thọ hưởng và thỏa mãn khẩu vị trên những đau khổ, quàn quại rên xiết của động vật khác, ta tưởng là thú lắm, sung sướng lắm, bổ béo lắm. Nhưng khi chúng ta lâm vào hoàn cảnh ấy ta mới thông cảm được thế nào là nước sôi lửa đốt. Chứng đó ta có oán hận ngọn lửa tàn ác kia sao lại dã man “thui” mình không một chút thương tiếc như thế? Nó vẫn cứ mặc nhiên thiêu đốt, giống như họ Bành “ rung đùi” lạnh lùng thản nhiên ngồi nhìn con ba ba thò đầu trong nồi nước sôi vậy. Quả là trước công lý mọi chúng sinh đều bình đẳng.
Đối với việc giant ham trộm cắp ta phải biết rằng dù là vật rất nhỏ nếu không xin cũng phải trả. Câu chuyện sau đây sẽ cho ta rõ thế nào là vay trả:
Ngày xưa có một phú gia nọ rất nhiều của. Mọi người trong xóm đều biết danh nhà cự phú này. Ông có nuôi một con ngựa rất khôn, đặc biệt là nó biết nói tiếng người và có linh tính biết trước các việc sắp xảy ra. Một hôm nó bảo với ông chủ là:
Tối nay sẽ có một toán cướp gồm mười tám tên đến đây, vậy ông hãy tránh đi nới khác.
Ông chủ không chịu đi và nói rằng:
Nếu quả thật bọn cướp có đến đây thì tôi sẽ đem vàng bạc cho chúng là xong, cần gì phải đi đâu cho cực.
Con ngựa bèn đáp:
Nếu ông không đi nới khác, e rằng chúng đến đây cướp của còn giết ông nữa thì sao? Tốt hơn ông hãy lấy vàng chia ra mười tám phần rồi chốn đi nơi khác, một mình tôi ở nhà định liệu.
Ông chủ nghe xong cho là phải, lấy vàng chia ra mười tám phần để sẵn và gia đình kéo nhau đi nơi khác. Tối hôm đó, mười tám tên cướp gõ cửa, con ngựa liền trả lời:
Ai đó? Cứ việc đẩy cửa vào!
Sau khi nghe xong bọn cướp xông vào nhà chia nhau lục soát khắp nơi mà không thấy một ai, chúng mới cất tiếng hỏi thì con ngựa trả lời:
Chính tôi là ngựa đây, tôi biết các ông tối nay đến đây nên tôi đã dặn chủ nhà chia sẵn mười tám phần vàng cho các ông rồi, còn chủ nhà đã tránh đi nơi khác.
Nghe xong, tất cả bọn cướp rất ngạc nhiên và hỏi ngựa tại sao biết nói tiếng người và biết hôm nay chúng đến cướp nhà này? Con ngựa đáp:
Tôi là người tu hành trong nhiều kiếp trước, trai giới rất nghiêm minh. Chỉ vì một hôm đi hành đạo phương xa, trong lúc băng qua một cánh đồng, vì bụng đói thấy nơi đám lúa có một nơi trổ bông duy nhất, tôi bèn xuống ngắt lấy ăn. Vì không xin chủ nên kiếp này phải bị làm thân ngựa để đền trả lại cho chủ nhân đây.
Sau khi nghe con ngựa kể xong, cả bọn cướp kinh hãi. Suy nghĩ về việc làm bất chính của mình từ trước tới nay. Nhà sư chỉ vì không xin một bông lúa mà phải bị đọa làm thân ngựa để đền trả như thế, huống chi cả đời chúng toàn cướp của hại người tránh sao cho khỏi quả báo. Từ đó, họ sám hối ăn năn quay trở về con đường lương thiện, bỏ nghề trộm cướp, tinh tấn tu hành về sau trở thành mười tám vị La Hán.
Cổ nhân nói: “ Nhân phi nghĩa bất giao, vật phi nghĩa bất thủ,, nghĩa là: Người không có lễ nghĩa thì chẳng nên thân, đồ vật phi nghĩa chẳng nên lấy giữ. Vì vật phi nghĩa là của trộm cắp, của cờ bạc, của rơi rớt ngoài đường, của hối lộ móc ngoặc, của lừa gạt dối trá người …Những thứ này không phải mồ hôi công sức mình tạo ra nên khó có thể bền vững lâu dài với mình được.
Lại nghĩ rằng: Trên đời này không có ai dám tự cho rằng mình là hoàn hảo, không chút lỗi lầm. Một người cho rằng mình hoàn hảo mới chính là người thiếu hiểu biết nhất. Trên đời cũng không có đạo lý nào dạy chúng ta oán hận người xung quanh. Người càng có học vấn thì càng phải khiêm tốn, nghiêm khắc với mình, khoan dung với người, sao lại oán hận người khác?
Nếu như tính tình của ta trước kia hay nóng giận thù oán người này người kia nên suy nghĩ rằng: Ai cũng có điều tốt, ai cũng có chỗ xấu. Khi gặp chỗ xấu của người xét về tình lý nên thương cho họ mà tha thứ chỗ xấu đó vì chính họ cũng là nạn nhân, chịu khổ não bởi thói xấu bản thân. Nếu có người ngang ngược, vô lý mạo phạm đến ta thì lỗi đó ở họ có dính dáng gì đến ta, vậy tại sao ta lại nổi giận?
Một người làm việc không được vừa lòng đắc ý đều do tâm của mình không tu dưỡng tốt, còn thiếu công đức, không đủ sức cảm động lòng người. Vì vậy phải tự xét lại mình, xem có chỗ nào có lỗi với người không?
Người có thể suy xét được như vậy, dụng công sửa mình thì người khác phỉ báng sẽ trở thành sự rèn luyện, thành tựu nhân cách cho ta. Bằng những bài học phản diện, ta nên hoan hỉ tiếp nhận sự giáo huấn, phê bình của người khác, còn oán hận điều gì?
Lại nữa, nghe người khác nói xấu mà ta không nổi giận, dù lời nói đó ác độc đến đâu, khác nào như đem lửa đốt trời, hư không vẫn rỗng rang, không có gì để cháy, lửa cuối cùng cũng tắt. Nếu ta nghe người khác hủy báng mà tìm cách biện hộ thì khác nào như tằm nhả tơ, tự trói buộc lấy mình. Đó là tự mình chuốc lấy khổ. Cho nên, nổi giận không những vô ích mà còn có hại.
Đó là nói về hậu quả của nóng giận. Còn như những lỗi lầm và tội ác khác cũng nên y theo đạo lý này mà suy xét, thì tự nhiên sẽ không phạm phải lỗi lầm.
* Cải đổi lỗi lầm từ tâm
Người ta gây tạo lỗi lầm vốn nhiều vô số , song tất cả đều do tâm tạo. Những ý niệm lành, dữ, thiện, ác ý nghĩ này, tư tưởng nọ hoặc những ý niệm tham sân si dấy khởi lên đều xuất phát từ cái ý ( ý căn ) hay cái tâm. Cho nên cái ý ( căn ) là cái gốc và là đầu mối tạo nên những nghiệp lành, nghiệp dữ …nên chúng ta mới nói nó chính là kẻ chỉ huy và cũng là thủ phạm. Còn cái Thân và cái Miệng chỉ là kẻ bị sai khiến bới cái Ý, nên cả hai chỉ là tòng phạm. Nếu tự trong tâm trừ ngay nguyên nhân sinh ra tội lỗi thì không có tạo ra bất cứ nghiệp gì. Như vậy lỗi lầm từ đâu mà sinh? Phàm người ta thường có nhiều lỗi lầm như tham đắm nữ sắc, danh tiếng, tiền của, hoặc hay nóng giận…Chúng ta không cần tìm hiểu phương pháp để cải đổi từng lỗi lầm một mà chỉ cần nhất tâm nhất ý khởi niệm lành, làm việc vì lợi ích của mọi người, lúc nào cũng sống trong chánh niệm thì không có ý niệm tà ác nào xen khởi, làm ô nhiễm tâm ta được.
Ví như mặt trời soi sáng giữa từng không, tất cả những hắc ám đều không chỗ dung thân. Đây chính là bí quyết tu tâm, sửa lỗi chân chính duy nhất. Phải biết tất cả lầm lỗi tội ác đều do một tâm này gây tạo nên chỉ cần ngay nơi tâm này sửa đổi lỗi lầm. Đây giống như trừ cây độc, phải đốn tận gốc, trốc tận rễ mới không sợ mọc trở lại, mà đâu phải chặt từng nhánh, bẻ từng cành.
Phương pháp cải đổi lỗi lầm cao minh nhất vẫn là tu tâm. Nếu biết tu tâm thì sẽ lập tức khiến tâm thanh tịnh. Vì tất cả sai lầm đều do tâm khởi niệm bất chính mà ra. Nếu biết tu tâm, chánh niệm tỉnh giác, khi tà niệm vừa khởi liền phát giác. Tà niệm ngay đó sẽ không còn, tâm trở lại thanh tịnh. Nếu ta không làm được như vậy, khi tà niệm khởi lên phát giác muộn màng và không đủ sức giác chiếu để khiến nó tiêu diệt, thì phải dùng đạo lý để suy xét thì sẽ hóa giải được tà niệm đó. Còn như không biết dùng đạo lý để suy xét thì cố gắng dằn lòng tránh xa không phạm lỗi.
Cả ba phương pháp này tuy có cao có thấp khác nhau song đều có giá trị riêng và bổ túc cho nhau. Ta cần phải biết rõ mình để có thể tùy cơ, tùy lúc vận dụng cả ba phương pháp một cách linh hoạt để tu sửa lỗi lầm, ắt sẽ công hiệu. Song phương pháp tu tâm, chánh niệm tỉnh giác vẫn là quan trọng nhất, không nên bỏ qua.
Lập chí sửa đổi lỗi lầm cũng cần có trợ duyên để dễ thành tựu. Về phương diện thấy được, đó chính là bạn tốt khuyên bảo, nhắc nhở ta lúc hồ đồ, nông nổi. Về phương diện không thấy được, đó là phát tâm sám hối trước Phật, Bồ tát, chư thiên…cầu chứng minh gia hộ, thành tâm sám hối, từ sáng đến tối không dám buông lung. Như tôi đã từ sám hối bảy ngày, mười bốn ngày, cho đến một tháng, ba tháng. Cứ sám hối như vậy nhất định sẽ có chứng nghiệm.
Nói chứng nghiệm của sự sám hỗi lỗi lầm là gì? Ví dụ như ta bỗng cảm thấy tinh thần rất thư thái, trong lòng an vui, hay cảm thấy trước đây tối dạ, giờ bỗng mở mang trí tuệ; hay dù là trong hoàn cảnh phiền phức mà tâm mình vẫn sáng suốt, tất cả đều thông tỏ. Hay lúc gặp phải kẻ thù địch có thể an ổn hoan hỉ, hóa giải cơn giận, nỗi hận trong lòng. Hoặc khi nằm mộng, mơ thấy ói ra thứ màu đen. Đây chính là những tư niệm tà, tích chứa thành uế khí, trong mơ ói ra thì tâm địa trở nên thanh tịnh. Hay trong mơ trông thấy Phật, Bồ tát đến nâng đỡ, dìu dắt ta; hoặc thấy mình bay lên không trung, tiêu dao tự tại; hay mơ thấy các loại phan lọng được trang sức được trang sức bằng các loại châu báu nhiều màu. Những việc ít thấy ít nghe như vậy đều là những điềm tiêu trừ tội chướng trong quá khứ. Song cũng không nên vì gặp được những điềm lành này liền tự cho rằng mình tu hành hơn người mà khởi tâm ngã mạn 1, không chịu vươn lên, tiếp tục nỗ lực.
Vào thời Xuân Thu trước đây, quan đại phu nước Vệ là Cừ Bá Ngọc vào năm hai mươi tuổi đã biết xét lại những lỗi lầm trong quá khứ của mình để kiểm điểm, cải đổi. Đến năm hai mươi mốt tuổi lại cảm thấy trước đây sửa đổi lỗi lầm vẫn chưa triệt để. Đến năm hai mươi hai tuổi, nhìn lại năm hai mươi mốt tuổi vẫn giống như ở trong mộng. Cứ như vậy mỗi năm
1 Ngã mạn: Tự cho mình tài giỏi cao hơn người mà khinh thường người khác.
trôi qua, mỗi năm lại sửa đổi lỗi lầm. Cho đến năm năm mươi tuổi, vẫn cảm thấy bốn mươi chín năm qua mình vẫn lỗi lầm. Người xưa đối với việc sửa đổi lỗi lầm cẩn thận coi trọng đến mức như vậy.
Chúng ta đều là kẻ phàm phu, lỗi lầm nhiều như lông trên mình nhím. Song ta lại cảm thấy dường như mình không có lỗi lầm gì lắm. Đó là do ta hời hợt, không biết tự xét lại mình. Giống như con mắt có bệnh không nhìn thấy mình mỗi ngày đang tạo tội. Song một người làm lỗi lầm tạo ác đến một mức nào đó sẽ có triệu chứng hiện ra. Như tâm tư hỗn loạn trệ ngăn, tinh thần suy sụp hay quên; hoặc việc không đáng phiền não lại cảm thấy vô cùng phiền não; hoặc thấy người phẩm hạnh cao quý cảm thấy hổ thẹn không vui; hay nghe được nhũng lời đạo đức quang minh chính đại lại không thích; hoặc đem ân huệ cho người, đối phương không nhận còn trở lại oán hận; hoặc tối ngủ thấy những giấc mơ xấu đáng sợ; hoặc nói năng không thứ lớp, không bình thường. Những hiện tượng bất bình thường như vậy đều biểu hiện của việc làm ác.
Giả sử có những hiện tượng như trên, ta phải lập tức đề khởi tinh thần, can đảm sửa đổi những lỗi lầm cũ, mở ra con đường nhân sinh sáng tỏ cho mình. Hy vọng mọi người không nên tự làm lỡ mình!
CHƯƠNG BA
TÍCH CHỨA PHÚC THIỆN
Chương trên đã giảng giải những phương pháp sửa đổi lỗi lầm. Nếu làm được như vậy tự nhiên có thể bảo đảm vận mệnh tốt đẹp không biến thành xấu, song vẫn chưa đủ để cải đổi vận mệnh xấu trở nên tốt đẹp. Bởi vì đời này tuy ta không phạm lỗi tạo ác song đời trước ta có gây tạo tội ác hay không làm sao biết được. Nếu đời trước phạm tội, đời này tuy không phạm vẫn phải trả báo của đời trước, vẫn gặp vận mệnh xấu. Vậy ta phải làm sao mới có thể cải đổi vận mệnh xấu đây?Đó là không những phải cải đổi lỗi lầm mà còn phải tích chứa phúc thiện, làm nhiều việc công đức mới có thể khiến nghiệp tội đời trước tiêu trừ. Việc lành tích chứa nhiều tự nhiên có thể chuyển đổi mệnh xấu thành mệnh tốt, đồng thời cũng có thể nghiệm chứng được hiệu quả của nó.
Để tích chứa phúc thiện việc bố thí là quan trọng nhất. Bố là khắp, thí là cho, bố thí là cho khắp tất cả. Bố thí gồm có nhiều nghĩa: cho, tặng, biếu, cúng dường, bố thí. Để giản tiện, ta tạm gọi tất cả những việc này là bố thí.
Vì sao phải bố thí?
Vì bố thí đem lại nhiều lợi ích sau đây: Bố thí là một kho tàng phúc đức luôn đi theo người chủ( tức người cho ) đời này sang đời khác. Bố thí xây dựng hạnh phúc và tiêu trừ đau khổ. Người biết bố thí thì ai cũng thương mến. Bố thí làm cho tâm ( người cho ) được an vui, khi gần chết tâm không sợ hãi. Bố trí tiêu trừ lòng tham lam bỏn xẻn. Người biết bố thí thì chư thiên ủng hộ. Bố thí là con đường trong sạch mà tất cả thánh nhân đều đã đi qua. Bố thí là một thiện nghiệp sẽ cho ra quả báo tốt. Bố thí là hành động của những người hùng. Bố thí sẽ tiêu trừ sự nghèo. Bố thí là nhà ở của tất cả những người cao quý, là thú vui của bậc thánh và vĩ nhân. Bố thí là một tấm gương sáng để cho những người thiếu phúc đức và trí tuệ noi theo.
Người trí và người ngu trong cuộc hỏa hoạn
Khi có một cuộ hỏa hoạn, người có trí khôn biết nhận xét xem lửa có thể lan đến nhà mình hay không. Nếu có thì vội vàng thâu góp tài sản dời đi chỗ khác yên ổn trước khi lửa cháy tới. Đến khi lửa lan tới và mặc dù căn nhà của mình bị cháy thiêu rụi nhưng người ấy vẫn còn nguyên những gì quý giá và nhờ đó có thể xây cất lại những căn nhà khác. Cũng như thế, người trí biết được cái thân xác mình rất mong manh dễ tàn và của cải vật chất cũng vậy nay còn mai mất, người ấy trau dồi tích tụ công đức bằng cách thực hành bố thí, cũng giống như người khôn biết thâu nhặt đồ vật quý giá trước khi nhà cháy, trong những kiếp sau người ấy ( người bố thí ) sẽ được hưởng lại sự bố thí do phúc báo đã tạo ra, giống như người khôn xây lại căn nhà mới vậy.
Ngược lại, cũng trong một cuộc hỏa hoạn, người ngu không biết làm gì, chỉ vì tham lam không muốn rời bỏ căn nhà. Đến khi lửa cháy tới nơi hoảng hốt lo chạy thoát thân một mình không đem theo được đồ vật nào cả. Người này không có trí khôn nhận xét được sự lan tràn nhanh chóng của lửa ( nhất là khi có gió to ) để rồi dưới sức gió và ngọn lửa vô tình , căn nhà của mình chỉ trong vài phút là cháy rụi ra tro. Tệ hơn nữa, do tiếc căn nhà không muốn dời nên đến giờ phút chót mới lo chạy thoát thân nên không đem theo được tài sản nào hết. Do đó, sau cuộc hỏa hoạn, người này phải chịu đói khát, chịu nóng lạnh và cuộc sống cực khổ cho đến hết cuộc đời. Trường hợp của một người tham lam, bủn xỉn keo kiệt cũng giống như người ngu vừa kể trên, tức là không biết rằng thân xác, của cải và mạng sống rất mong manh, dễ tàn, nay còn mai mất , không thể nào giữ mãi được, chỉ trong một tích tắc đồng hồ thôi là có thể tiêu tan mất hết. Vì không biết được như vậy nên trong suốt cuộc đời, người ngu chỉ chúi đầu vào việc tích tụ của cải, vơ vét tiền bạc, rồi bảo vệ, giữ gìn chúng một cách tham lam ích kỷ. Nhưng rồi bất thình lình một ngày nào đó, Thần chết đến gõ cửa nắm đầu lôi đi ( không thể từ chối được ) . Xác thân tứ đại này tan rã trở về với đất. Những của cải, tài sản khổ công tích tụ đều phải bỏ lại không đem theo được và kiếp sau tái sinh trong cảnh nghèo khổ, đói rét giống như người ngu hoảng hốt trong cơn hỏa hoạn vậy.
Người trí rộng lượng biết được rằng: khi bố thí cho người khác tức là làm lợi cho chính mình. Ngược lại, người ngu bần tiện không biết được rằng: nếu không bố thí hay giúp đỡ người khác tức là chẳng làm được lợi ích gì cho mình cả.
Nếu ta tham lam, bủn xỉn, keo kiệt, không bao giờ biết tạo phúc, bố thí cho ai thì kiếp sau ta sẽ chịu cảnh nghèo khổ. Vì nghèo khổ nên ta có những ý tưởng trộm cắp, lường gạt. Và nếu đi trộm cắp hay cướp giật thì ta dễ phạm phải tội giết người. Vì nghèo khổ nên ta khó có thể thỏa mãn dục lạc, dục lạc không được thỏa mãn thì ta dễ phạm vào tà hạnh dâm dục. Vì nghèo khổ nên ta phải chịu làm những việc hạ tiện, hạ cấp. Vì hà tiện, hạ cấp nên ta luôn luôn sợ chủ và ta sẽ dễ phạm phải tội nói dối, nịnh bợ…Như vậy, vì nghèo khổ, ta dễ phạm vào mười điều ác của thân, miệng, ý.
Ngược lại, nếu thực hành bố thí , ta sẽ tái sinh trong cảnh giàu sang, tiền của đẩu đủ , sống đời hạnh phúc.
Khi nói đến sự bố thí thì ta nhận ra có ba yếu tố tạo ra nó, đó là: người cho, món đồ và người nhận.
I. Trên phương diện người thí ( người cho):
Bố thí có hai loại: trong sạch và không trong sạch:
Thế nào là bố thí không trong sạch?
Đó là bố thí vì: tư lợi, bất kính, chán ghét, yếu hèn, muốn dụ dỗ, sợ chết, muốn chọc tức, ghen tức, ganh đua, kiêu ngạo, cầu danh, tránh né sự nguy hiểm, muốn mê hoặc lòng người…Tóm lại, bố thí vì một cái tâm xấu xa, không nghĩ đến sự an vui hay lợi ích cho người nhận.
Thế nào là bố thí trong sạch?
Nói một cách giản dị, đó là sự bố thí có tính cách ngược lại những gì đã tả ở phần trên. Còn có nghĩa là bố thí mà muốn đem lại lợi ích cho người nhận.
II. Trên phương diện vật thí
Có ba loại : tài thí, pháp thí và vô úy thí. Trong mỗi loại trên lại chia ra: chân chính và không chân chính.
Tài thí
Tài thí lại chia ra hai loại: ngoại thí và nội thí
Ngoại thí: là bố thí những đồ vật bên ngoài như: vàng bạc, của cải, quần áo, đồ ăn thức uống…
b) Nội thí: là bố thí những gì trong thân thể con người chúng ta. Như Đức Phật Thích Ca trong tiền kiếp đã bố thí đầu, mắt, tay, chân…Ngày nay ta không làm nổi như vậy thì ta có thể bỏ công sức ra làm công quả cho chùa, kéo xe cho người già, nhặt rác, trồng cây, bảo vệ môi trường…hoặc tiếp máu cho bệnh nhân ở nhà thương, hoặc ký giấy cho những bộ phận trong thân thể mình nếu bị chết bất đắc kỳ tử.
c) Tài thí chân chính: là những đồ vật được bố thí không phải do từ trộm cướp hay cướp giật. Nếu ngược lại là tài thí không chân chính.
Ngoài ra nếu ta bố thí trong những trường hợp sau đây thì phúc báo sẽ tăng lên gấp bội:
- Bố thí đúng lúc. Có nghĩa là bố thí cho những nơi đang thiên tai, hỏa hoạn, bệnh dịch…cần gấp việc bố thí.
- Bố thí luôn luôn mà không thấy mệt mỏi hay chán nán.
- Bố thí tùy theo sở thích của người xin.
- Bố thí những vật quý giá.
- Bố thí cho những người làm việc công ích như làm việc cho chùa, đào mương…
- Bố thí cho chư tăng.
- Bố thí mà kính trọng người nhận.
- Bố thí cho những người có đức hạnh.
- Bố thí tất cả những gì mình có.
2. Pháp thí
Được xem là pháp thí gồm có:
a) Tất cả những lời nói chân thật, hữu ích, có thể đem lại an lạc cho người nghe;
b) Giảng dạy chánh pháp của đức Phật.
3. Vô úy thí
Vô úy thí có nghĩa là sự bố thí sự không sợ hãi, tức là làm cho người khác được an tâm, yên chí, không sợ gì cả.
4.So sánh ba loại bố thí
Vì vô úy thí nằm trong tài thí ( nếu cho bằng hành động ), pháp thí ( nếu cho bằng lời nói) nên chỉ so sánh tài thí với pháp thí thôi thì bố thí pháp sẽ được nhiều công đức hơn bố thí tài.
III. Trên phương diện người nhận hay ruộng phúc
Tại sao lại gọi người nhận là ruộng phúc? Tại vì chính ở nơi họ mà ta gieo hạt giống phúc đức nên gọi là ruộng phúc. Nhờ có họ mà ta mới thực hiện được sự bố thí. Có hai loại ruộng phúc:
1.Ruộng phúc nhỏ: Vì lòng thương hại người nhận nên ta phát tâm bố thí. Những hạt giống thương hại sẽ cho ra những cây lúa nhỏ, nên gọi là ruộng phúc nhỏ.
2. Ruộng phúc lớn: Vì có tâm kính trọng nên ta phát tâm bố thí. Những hạt giống kính trọng sẽ cho ra những cây lứa lớn, nên gọi là ruộng phúc lớn.
Tóm lại: một sự bố thí được xem là trong sạch và đem lại phúc đức quả báo vô lượng vô biên cần phải có ba yếu tố sau:
Người bố thí phải có tâm trong sạch
Vật được thí phải chân chính
Người nhận phải được kính trọng tối đa
Tích đức hơn tích của
Làm bậc cha mẹ ai cũng muốn tích cóp tài sản để lại cho con cháu. Tuy nhiên, người hiểu đạo lý thì tạo cái kho tàng phúc đức cho chúng là bảo đảm hơn hết, chẳng sợ ai lấy cắp và không bị con cháu phá tán.
Nếu cha mẹ biết lo tu thân, tích chứa âm đức và giáo dục con theo giáo lý Phật dạy, tạo vốn kiến thức nghề nghiệp cho chúng thì sau này tự chúng sẽ làm nên sự nghiệp với bao nhân tốt mà cha mẹ đã gây tạo vun bón. Vì hạt giống lành đã gieo, nếu biết chăm sóc thì sẽ sinh cây trổ quả.
Thỉnh thoảng cha mẹ nên cho con đi đến thăm viếng, biếu quà ( nếu có điều kiện ) các nơi như Viện dưỡng lão, Viện Tế bần, Viện cô nhi… để cho chúng chứng kiến tận mắt cảnh cô khổ, thiếu tình thương của những kẻ bất hạnh. Giúp chúng phát khởi lòng từ bi, thương xót người khốn khó, dạy chúng bài học nhân quả thực tế nhất.
Trái lại, nếu con kém tài thiếu đức, vô đạo mà cha mẹ chỉ bo bo tối ngày đem thân trâu ngựa để làm giàu cho chúng, chẳng những khổ cái thân mình còn tạo thêm cho chúng tính ỷ lại, lười biếng, hoang phí và phạm bao nhiêu tội ác nữa.
“ Kinh Dịch” nói: “ Một nhà tích thiện hẳn có nhiều vui,,. Trước đây có người họ Nghiêm định gả con gái của mình cho cha của Khổng Tử, việc đầu tiên là xem xét những việc làm của nhà họ Khổng. Ông nhận thấy tổ tiên của họ Khổng tích chứa phúc đức rất nhiều và rất lâu nên biết trước con cháu họ Khổng sau này nhất định sẽ thành đạt lớn. Sau đó, quả nhiên sinh ra Khổng Tử.
Lại nữa, Khổng Tử khen sự hiếu thảo của vua Thuấn vượt hơn việc hiếu bình thường. Khổng Tử nói: “ Lòng đại hiếu như vua Thuấn không những tổ tiên nhờ đó được hưởng sự cúng tế của ông mà con cháu nhiều đời cũng giữ được phúc lộc của mình, không bị thất bại. Nước Trần vào thời Xuân Thu chính con cháu vua Thuấn truyền lại đủ chứng minh con cháu đời sau của vua Thuấn thành đạt rất lâu. Cho nên, lời nói của Khổng Tử thật vô cùng chính xác.
Nay lại đem những việc thực, đã xảy ra trong quá khứ để chứng minh công đức của việc tích chứa phúc thiện.
* Có một người làm đến chức Thiếu sư, tên là Dương Vinh, thuộc huyện Kiến Ninh, tỉnh Phúc Kiến. Tổ tiên của ông làm nghề chèo thuyền đưa khách sang sông để kiếm sống. Có một lần, mưa xuống rất lâu, sông suối ngập tràn, thế nước ào ạt, cuốn phăng nhà cửa của dân. Rất nhiều người đã bị nước cuốn, số chết, số đang vật vã trong dòng nước xiết. Những thuyền khác đều lo đi vớt của cải trôi theo dòng nước, chỉ ông cố và ông nội của Dương Vinh lo đi cứu những người mắc nạn bị nước cuốn trôi mà không vớt một món vật nào. Người trong làng đều cười chê , cho họ là ngu. Đến khi cha Dương Vinh ra đời, sinh kế của gia đình lần lần khá giả. Có một vị đạo sĩ nói với cha Dương Vinh rằng: “ Cha và ông nội của ông tích chứa được rất nhiều âm đức, con cháu nhất định sẽ thành đạt làm quan lớn. Ông nên đem hài cốt cha mình an táng tại chỗ kia,,.
Cha Dương Vinh nghe xong, y lời đạo sĩ đem hài cốt của cha và ông nội chôn tại chỗ đạo sĩ chỉ. Ngôi mộ đó, ngày nay mọi người đều biết là mộ Bạch Thố. Sau đó, Dương Vinh ra đời, đến năm hai mươi tuổi thi đậu Tiến sĩ. Làm quan mãi đến chức Thiếu Sư thuộc hàng Tam Công. Hoàng đế còn truy phong cho cha, ông nội, ông cố của Thiếu Sư chức tước như ông. Con cháu đời sau của Thiếu Sư vô cùng thành đạt, mãi cho đến ngày nay vẫn còn rất nhiều bậc hiền tài.
* Dương Tự Trừng người Ninh Ba, Triết Giang. Ban đầu làm chức Thư biện ở nha quan, tâm vô cùng nhân hậu, nghiêm giữ pháp luật, làm việc công minh. Lúc đó, quan huyện là người nghiêm khắc ngay thẳng, có một lần đánh một kẻ tù phạm đến máu chảy đầy đất mà vẫn chưa nguôi giận. Dương Tự Trừng lúc đó quỳ xuống xin tha cho người phạm tội. Quan huyện bảo: “ Ông xin tha tội cho hắn vốn chẳng có gì đáng nói, song tên tù phạm này không tuân thủ pháp luật, làm trái đạo lý, sao mà không giận cho được! ”.
Dương Tự Trừng vừa dập đầu lạy vừa thưa: “ Hiện nay trong triều, thật ra thị phi khó định, quan trường toàn là việc tối tăm tham ô hủ bại, đánh mất lòng dân đã lâu. Nếu ngài thẩm vấn giả như tìm ra tội của phạm nhân thì cũng nên đau lòng cho họ, thương họ không biết đạo lý, lầm phạm pháp luật, không nên vì đó mà vui mừng. Nếu như có tâm vui thích tìm ra tội trạng của phạm nhân, e sẽ dễ đưa đến xử án thiếu sót sai lầm. Nếu như ngài quá nóng giận đánh đập tra khảo, e rằng phạm nhân do không chịu nổi sẽ nhận tội bừa, làm oan uổng người ta. Ngay cả ưa thích tìm ra tội trạng của phạm nhân còn không được, huống chi là nổi giận sao?,,.
Quan huyện nghe xong lời nói của Dương Tự Trừng vô cùng cảm động, lập tức dịu sắc mặt, hạ cơn giận xuống.
Dương Tự Trừng gia cảnh rất nghèo xong có người đem biếu cho món gì ông đều không nhận. Gặp khi tù phạm đói khát, ông thường tìm cách kiếm thức ăn biếu cho họ. Một hôm, có vài tù nhân mới đến, vì đường xa không có ăn uống nên vô cùng đói khát. Lúc đó, nhà ông lại thiếu gạo, nếu đem đến cho tù nhân thì người nhà sẽ phải chịu đói. Nếu chỉ lo cho mình thì những tù nhân này đói khát thật đáng thương. Không còn cách nào khác, ông bèn bàn cùng vợ đem số gạo trong nhà ra nấu cháo cho họ cùng ăn. Về sau, hai người sinh được hai đứa con trai, đứa lớn tên Thủ Trần, đứa nhỏ tên Thủ Chỉ, đều làm quan đến chức Nam Bắc Lại bộ thị lang. Cháu nội lớn làm đến chức Hình bộ thị lang. Cháu nội nhỏ cũng làm đến chức Tứ Xuyên án sát sứ. Hai người con, hai người cháu đều là những quan lớn nổi tiếng. Hiện nay có hai danh nhân là Sở Đình và Đức Chánh đều là dòng dõi con cháu của Dương Tự Trừng .
* Vào khoảng năm Chánh Thống vua Anh Tông triều Minh, có một người lãnh đạo thổ phỉ tên là Đặng Mậu Thất làm phản ỏ tỉnh Phúc Kiến. Kẻ sĩ và dân chúng nơi đó đi theo rất đông. Triều đình bèn sai Trương Khải người huyện Ngân làm chức Đô ngự sử đi dẹp loạn. Trương Khải dùng kế bắt được Đặng Mậu Thất. Sau đó họ Trương lại phái Tạ Đô Sự làm chức Bố ty chánh tỉnh Phúc Kiến đi tróc nã những người tòng đảng. Nếu bắt được liền giết. Nhưng Tạ Đô Sự không chịu giết càn, sợ giết lầm người. Ôn bèn cho đi tra tìm danh sách thổ phỉ, điều tra ra nếu không phải là tòng đảng, trên danh sách không có tên, đều ngầm đưa cho họ một lá cờ trắng và hẹn rằng, khi quan binh đến tra xét thì treo lá cờ trắng đó trước cửa, chứng tỏ mình là lương dân vô tội. Đồng thời ông cũng cấm các quan binh không được giết bừa. Nhờ biện pháp đó, có đến hàng vạn người tránh khỏi bị giết. Về sau, con trai của Tạ Đô Sự là Tạ Thiên thi đậu trạng nguyên làm quan đến chức Tể Tướng. Cháu nội của ông là Tạ Phi cũng thi đậu Thám hoa, tức Tiến Sĩ hạng ba.
* Trong huyện Bồ Điền tỉnh Phúc Kiến có nhà họ Lâm. Trưởng bối của họ có một bà cụ thích làm việc thiện, thường dùng bột mỳ làm bánh biếu cho người nghèo. Chỉ cần có người mở lời xin, bà liền biếu ngay, không chút do dự. Có một vị đạo sĩ mỗi sáng đều đến xin bà sáu bảy cái bánh. Bà lão cho suốt ba năm chưa hề có lời phiền hà. Đạo sĩ biết bà có thành tâm làm việc thiện nên bảo: “ Tôi ăn bánh của bà suốt ba năm, không biết làm sao để đáp ơn này? Sau nhà có miếng đất trống, nếu sau khi mất, bà có thể an táng tại nơi đó, sau này con cháu nhất định sẽ có quan tước, nhiều như một đấu mè,,.
Về sau bà lão qua đời, người con y lời đem chôn mẹ mình ở nơi đạo sĩ nói. Không ngờ một đời nhà họ Lâm thi đậu có đến chín người. Sau này con cháu làm quan nhiều đời, số lượng rất nhiều. Do đó, tỉnh Phúc Kiến truyền tụng câu nói: “ Nếu không có họ Lâm đi thi thì không thể có người trúng tuyển,,. Ý nói, người họ Lâm đi thi nhiều, đậu cũng lắm.
* Cha của Thái sư Phùng Trác Am lúc làm tú tài ở trường huyện, vào một buổi sáng trời mùa đông vô cùng lạnh lẽo, ông đang trên đường đi đến trường, bỗng trông thấy một người nằm ngã trên tuyết, lạnh cóng sắp chết. Phùng tiên sinh liền cởi áo khoác của mình ra mặc cho người đó và đưa về nhà cứu giúp cho tỉnh lại. Sau đó, Phùng tiên sinh nằm mơ thấy một vị thiện thần bảo: “ Người cứu một mạng người hoàn toàn xuất phát từ tâm chí thành cho nên ta phái Hàn Kỳ đầu thai làm con trai nhà ông,,.
Về sau, Trác Am sinh ra, được đặt tên là Phùng Kỳ. Thì ra, Phùng Kỳ vốn là một vị Tể tướng văn võ toàn tài triều Tống tên Hàn Kỳ tái sinh.
* Ở Đài Châu Triết Giang có một vị quan Thượng Thư tên là Ứng Đại Do. Ông thưở còn trẻ từng ở trong núi tự học. Nơi đây ban đêm thường có loài quỷ tụ tập kêu gào, mọi người đều sợ không dám ở, song Ứng Đại Do lại không sợ. Một đem nọ, ông nghe hai con quỷ nói chuyện. Một con quỷ bảo: “ Có một phụ nữ chồng đi xa đã lâu chưa về. Cha mẹ chồng cho là con trai mình đã chết nên ép người con dâu đi cải giá. Song cô này lại muốn thủ tiết không chịu nên định tối mai đến đấy thắt cổ tự tử. Như vậy tôi có thể tìm ra người thay thế,,.
Ứng Đại Do nghe được lời này, khởi lên tâm cứu người nên ngầm bán đi miếng ruộng của mình được bốn lạng bạc, vội viết một lá thư giả làm con trai của gia đình đó, cùng với số bạc gửi đến nhà. Gia đình tuy xem xong bức thư, tuy chữ viết không phải của con mình nhưng số bạc là thật nên cuối cùng bán tín bán nghi, vẫn hy vọng con mình còn sống và không ép con dâu cải giá nữa. Về sau con trai của họ quả nhiên trở lại, vợ chồng hòa hợp như xưa.
Lại nói, do Ứng Đại Do sau khi cứu người phụ nữ đó xong, đêm sau ông nghe con quỷ đó nói: “ Tôi đáng lẽ có thể tìm được người thế thân, không ngờ lại bị gã tú tài này làm hỏng chuyện!,,. Con quỷ bên cạnh bảo: “ Sao mày không hại chết tên đó!,,. Con quỷ đó trả lời : “ Vì tâm người này tốt, làm nhiều điều thiện, âm đức rất lớn nên được thiện thần ngày đêm bảo hộ, làm sao mà hại hắn được!,,.
Ứng công sau khi nghe hai con quỷ nói lại càng nỗ lực phát tâm lành, công đức cũng ngày một sâu dày. Khi gặp năm mất mùa đói kém, ông đều bố thí cơm gạo cứu người. Gặp khi thân thuộc có nạn gấp, ông nhất định tìm cách giúp người qua cơn khó khăn. Khi gặp phải oan gia hay việc bất như ý, ông đều tự xét lại mình, tâm bình khí hòa chấp nhận mọi việc. Nhờ đó, con cháu của Ứng công nhiều người được công danh quan vị, mãi đến ngày nay vẫn còn.
* Huyện Thường Thục, tỉnh Giang Tô có một vị tiên sinh tên là Từ Phụng Trúc, cha của ông vốn rất giàu có. Gặp năm mất mùa đói kém, ông đều không lấy thuế ruộng của tá điền. Điều này đã khiến các địa chủ khác học theo. Ngoài ra, ông còn đem lúa gạo cứu giúp người nghèo đói. Một đêm, ông nghe có tiếng quỷ xướng lên trước cửa: “ Ngàn lần không sai, vận lần không sai, tú tài nhà họ Từ sắp thi đậu cử nhân”.
Đêm nào cũng có tiếng như thế vang lên trước cửa. Năm đó, Từ Phụng Trúc đi thi Hương, quả nhiên đỗ được cử nhân. Cha của ông nhân đó rất vui, càng nỗ lực làm các việc thiện, tích chứa công đức. Ông thường làm việc xây cầu, đắp đường, trai tăng, cúng dường Tam Bảo…Gặp người nghèo khó cơ nhỡ, ông đều ra tay cứu giúp. Sau đó, ban đêm ông lại nghe có tiếng quỷ thần kêu trước cửa: “ Ngàn lần không sai, vạn lần không sai, cử nhân nhà họ Từ làm quan đến Khâm Sai’’. Sau này, Từ Phụng Trúc quả nhiên làm đến chức Khâm sai tuần phủ miền Triết Đông và Triết Nam thuộc tỉnh Triết Giang.
* Huyện Gia Hưng tỉnh Triết Giang có một vị họ Đồ, tên là Khang Hi. Buổi ban đầu giữ chức chủ sự bộ hình thường vào trong ngục điều tra xét hỏi cặn kẽ phạm nhân. Nhờ vậy ông phát hiện ra nhiều vụ án oan khuất. Ông không tự lấy làm công lao của mình mà viết sớ mật trình lên quan Trưởng bộ hình. Về sau, các án tích đều được đưa về triều xét lại. Quan Trưởng bộ hình dựa vào các tài liệu do Đồng công cung cấp, tra hỏi xét xử lại giải oan được cho hàng chục người mà trước đây vì chịu không nổi nhục hình đã khai nhận, song thực chất là vô tội.
Lúc đó, dân chúng trong kinh thành đều khen quan Trưởng bộ hình sáng suốt minh xét. Sau đó, Đồ công lại dâng lên một bức tấu trình, thưa rằng: “ Dưới chân thiên tử còn có nhiều người bị oan khuất như vậy, huống chi là cả nước rộng lớn, làm sao mà không có người bị oan khuất> Vì vậy, xin kiến nghị mỗi năm phái một vị giảm hình quan đi các tỉnh tra xét kỹ lại sự thật của các vụ án. Nếu quả như có tội thì định tội cũng phải công minh; còn như oan khuất, nên xét xử lại, giảm nhẹ hay tha bổng”.
Quan Trưởng bộ hình bèn thay ông dâng sớ điệp đó lên vua. Vua phê chuẩn cho lời kiến nghị của ông bèn phái giảm hình quan đến các tỉnh để thẩm tra. Đồ công cũng ở trong đoàn thanh tra đó.
Một hôm nọ, Đồ công nằm mơ trông thấy một vị thần đến bảo: “ Mệnh của ông đúng ra không có con trai, song nhờ ông nêu ra cách giảm hình án hợp với lòng trời lòng người nên ông sẽ có ba người con trai, sau này đều làm quan lớn.
Không bao lâu sau, vợ của ông lền có mang. Về sau sinh ra Ứng Vẫn, Ứng Khôn, Ứng Tuấn đều làm quan lớn.
* Có một vị người Gia Hưng, tên Bao Bằng, hiệu Tín Chi. Cha của ông từng làm Thái Thú của phủ Trì Châu, tỉnh An Huy, sinh ra bảy người con trai, Bao Bằng là con út. Ông vào ở rẻ nhà họ Viên huyện Bình Hồ, thường qua lại với ông nội con, giao tình rất thân. Học vấn của ông uyên bác, tài năng rất cao nhưng nhiều lần đi thi đều không đỗ nên chán chuyện khoa bảng mà chuyên tâm nghiên cứu đạo Phật.
Một hôm, ông đi chơi ở Mão Hồ, tình cờ trông thấy trong một ngôi chùa ở làng nọ, vì tường chùa hư hại nên tượng Quán Thế Âm trở nên trơ trọi lộ thiên, dầm mưa loang lổ. Lúc đó, ông móc hết tất cả các túi ra, có tất cả là mười lạng bạc liền đem cúng cho vị trụ trì, nhờ tu sửa gian nhà thờ đức Bồ Tát Quán Thế Âm. Trụ trì nói với ông: “ Sửa chùa là công trình lớn, tiền ít e không đủ dùng, khó mà hoàn thành”.
Nghe vậy, ông lại lấy bốn xấp vải quý sản xuất tại Tùng Giang và mở hòm lấy ra bảy chiếc áo mới đưa hết tất cả cho vị trụ trì để bán lấy tiền phụ thêm vào việc tu bổ chùa. Người làm có ý tiếc, ngăn cản lại. Nhưng Bao Bằng bảo: “ Chỉ cần tượng Đức Bồ Tát Quán Thế Âm không bị mưa ướt, thì thân này dù có cởi trần cũng không sao!’’.
Trụ trì nghe xong rơi lệ bảo: “ Cúng dường tiền, vải, áo quần không phải khó. Nhưng thành tâm đến mức này thật là hiếm có!,,.
Sau khi điện thờ Quán Thế Âm Bồ Tát được sửa xong, Bao Bằng có đưa cha mình đến nơi đó thăm và ở lại trong chùa. Đêm đó, Bao Bằng nằm mộng, trông thấy Hộ Pháp trong chùa đến cám ơn, bảo: “ Ông làm được công đức này, con cháu nhiều đời của ông sẽ được quan chức, phú quý!,,.
Về sau, con của ông là Bao Biện, cháu là Bao Thánh Phương đều thi đậu Tiến sĩ, làm quan lớn.
*Huyện Gia Thiện, tỉnh Triết Giang có một người tên là Chi Lập. Cha của ông làm chức Thư biện trong phòng hình sự huyện nha. Có một phạm nhân bị hại, mắc tội oan, bị phán quyết tử hình. Thư biện họ Chi thấy tội nghiệp, tìm cách xin quan trên giảm tội chết cho người đó. Người đó biết được lòng tốt của ông, bèn bảo với vợ: “ Chi công có lòng tốt muốn giải oan cứu sống ta, thực lấy làm hổ thẹn là ta không có gì báo đền ơn đức đó được. Ngày mai, bà hãy mời ông ta về nhà, xin làm thiếp hầu hạ ông. Ông ta nếu cảm động trước ân tình này thì tôi sẽ có cơ hội được sống,,.
Vợ của phạm nhân nghe xong, không có cách nào, chỉ đành vừa khóc vừa nhận lời. Đến hôm sau, khi mời Chi Thư biện về nhà, vợ của phạm nhân ra mời Thư biện uống rượu và đem ý chồng mình ra nói với ông. Nhưng Thư biện đã kiên quyết từ chối.
Song ông vẫn đem hết khả năng của mình ra tranh biện cho phạm nhân. Cuối cùng, vụ án được giải oan, trả lại công bằng cho người phạm nhân bị oan. Sau đó phạm nhân ra ngục, vợ chồng hai người đến nhà Thư biện lạy tạ bảo: “ Ngài có đức độ sâu dày như vậy, hiện nay thật hiếm có. Nay ngài không có con trai, tôi xin dâng đứa con gái đến làm thiếp, lo việc hầu hạ trong ngoài. Về tình về lý không có gì quá đáng”.
Chi Thư biện nghe lời, chuẩn bị lễ vật, rước người con gái đó về làm thiếp, sau này sinh được một người con trai tên Chi Lập, mới hai mươi tuổi đã đỗ đầu cử nhân, làm quan đến chức thư ký Hàn lâm viện. Sau này, con của Chi Lập là Chi Cao, con của Chi Cao là Chi Lộc đều làm quan đến chức giáo thọ trường huyện. con của Chi Lộc là Chi Đại Luân cũng thi đậu Tiến Sĩ.
Mười câu chuyện kể trên, tuy mỗi người mỗi việc khác nhau, song tất cả đều là làm việc thiện. Nếu phân loại kỹ hơn, làm việc thiện có thể phân làm: thật, giả, âm, dương, lớn, nhỏ, khó, dễ…
Mỗi loại đều có đạo lý của nó, phải phân biệt rõ. Nếu chỉ lo làm việc thiện dễ đưa đến khoe khoang, tự đắc, nhiều khi lại không phải là làm việc thiện mà là đang tạo tội. Như vậy há không phải cực nhọc vô ích, oan uổng lắm sao? Nay sẽ thuyết minh về đạo lý làm thiện nói trên.
Sao gọi là làm thiện có thật có giả?
Vào thời Nguyên có mấy vị Nho học đi tham kiến Hòa thượng Trung Phong ở núi Thiên Mục, hỏi rằng:
- Nhà Phật nói thiện ác báo ứng như bóng theo hình, vậy sao hiện nay có người làm thiện mà con cháu lại không hưng vượng? Có người làm ác mà con cháu lại phát đạt? Vậy lời Phật nói về thiện ác không chứng cứ!
Hòa thượng Trung Phong đáp:
- Người bình thường bị kiến giải thế tục che lấp, tâm chưa từng được tẩy gội. Vì pháp nhãn chưa mở nên nhiều khi họ cho rằng hành vi làm thiện đó là làm ác; hành vi làm ác lại cho là làm thiện. Ta làm sai, nhiều lúc không biết tự trách mình điên đảo, lại oán trời đất, bảo là báo ứng không đúng.
Mọi người lại hỏi:
- Thiện là thiện. Ác là ác. Sao lại có chuyện thiện ác trái ngược?
Hòa thượng Trung Phong nói:
- Làm việc lợi ích cho người gọi là thiện; làm chỉ có lợi cho mình gọi là ác. Làm việc lợi ích cho người, dù là mắng chửi, đánh đập, cũng làn thiện; còn việc chỉ có lợi cho mình, cho dù cung kính, lễ độ với người cũng gọi là ác. Cho nên, một người làm được việc thiện, khiến người khác có được lợi ích gọi là việc công, cũng tức là việc thiện chân thật; còn chỉ muốn mình được lợi ích, gọi là việc tư, tức là việc thiện giả dối. Lại nữa, việc thiện xuất phát từ tâm từ bi của mình gọi là chân thật; còn việc thiện nếu chỉ có hình thức, làm cho người ta thấy mà thôi thì gọi là giả dối. Lại nữa, làm việc thiện không cầu quả báo, không có chấp trước, đó là chân thật; song nếu chấp vào mục đích nào, có tâm mong cầu quả báo để làm việc thiện, đó là giả dối. Những việc làm thiện như vậy, mình phải cẩn thận suy xét mới được.
Sao gọi là việc thiện có âm có dương?
Phàm người làm việc thiện được người ta biết đến gọi là dương thiện ; làm việc thiện mà không người biết đến thì gọi là âm đức . Người có âm đức, Long thần Hộ pháp đều biết và bảo hộ, phúc đức tự nhiên cũng đến. Người có dương thiện, mọi người đều biết, khen ngợi, hưởng được tiếng thơm trong đời, có danh tiếng tức là đã được phúc báo rồi.
Nhưng những người có danh tiếng lừng lẫy mà thực sự không có nhiều công đức xứng đáng với danh tiếng đó thường gặp nhiều tai họa bất kỳ xảy ra.
Người không có tội lỗi gì mà bỗng phải chịu mang tiếng xấu một cách oan uổng thì con cháu họ sẽ được đền đáp, mau chóng phát đạt. Cho nên, dương thiện và âm đức có sự sai khác vì thế, không thể không suy xét kỹ.
Sao gọi là việc thiện có đúng có sai?
Vào thời Xuân Thu thuở xưa, nước Lỗ có luật định, nếu người nước Lỗ bị nước khác bắt đi làm nô lệ mà có ai dùng tiền chuộc ra thì người đó có thể đến quan phủ lĩnh tiền thưởng. Song học trò của Khổng Tử là Tử Cống tuy giúp chuộc nô lệ ra lại không chịu nhận tiền thưởng. Ông không nhận tiền, chủ ý chỉ vì giúp người mà không phải vì tiền thưởng, vốn rất tốt. Nhưng khi Khổng Tử nghe được, không vui bảo: “ Tử làm việc thất sách rồi. Thánh nhân xử sự nhất cử nhất động có thể cải sửa phong tục, thay đổi tập quán, làm gương mẫu cho bách tính noi theo, chẳng phải cứ theo ý làm những việc thích hợp với riêng mình. Hiện nay, người trong nước Lỗ phần nhiều là nghèo. Nếu cho nhận tiền thưởng là tham tài thì người ta sẽ sợ mang tiếng tham tài, và vì không có tiền nên không chịu đi chuộc những người nô lệ. Như vậy e rằng sau này sẽ không có ai đi chuộc những người bị bắt làm nô lệ đó! ”.
Tử Lộ thấy một người té xuống sông liền cứu người đó lên bờ. Người đó đem một con trâu đến biếu Tử Lộ, Tử Lộ liền nhận. Khổng Tử biết việc, rất vui bảo: “ Từ nay về sau, nước Lỗ sẽ có nhiều người chủ động cứu vớt người rơi xuống sông!”.
Qua hai câu chuyện trên chúng ta thấy, nhìn theo con mắt thế tục, Tử Cống không nhận tiền thưởng là tốt; Tử Lộ nhận con trâu là không tốt. Song không ngờ, Khổng Tử khen Tử Lộ, mà lại trách Tử Cống. Như vậy, xem ra muốn biết một người làm việc thiện hay ác không thể chỉ nhìn trên kết quả trước mắt mà phải xét đến hiệu quả lâu dài; không thể chỉ nghĩ đến ảnh hưởng trong hiện tại mà phải xét đến việc đúng sai ở tương lai. Không thể chỉ nghĩ cho riêng cá nhân mình mà phải nghĩ cho cả thiện hạ nữa.
Hiện nay làm tuy là thiện song nếu lưu truyền về sau có hại cho người thì đó cũng không phải là thiện. Hiện nay làm tuy không phải là thiện, song nếu lưu truyền sau này có thể giúp đỡ người khác thì tuy dường như bất thiện mà thực ra là thiện. Đây chẳng qua chỉ nêu ra một việc để nói thôi, những việc khác lại rất nhiều. Ví dụ như một người làm việc gọi là nghĩa, song có lúc việc nghĩa cũng sai lầm, trở lại là việc ác.
Ví như người xấu ác có thể không cần phải khoan thứ, song nếu có người khoan thứ cho họ thì cũng không thể bảo đó là việc bất nghĩa. Song nếu khoan thứ cho hắn lại khiến hắn ta ỷ lại, làm nhiều việc ác hơn nữa, kết quả nhiều người do đó bị hại, ta cũng vì thế mang tội. Chi bằng không khoan thứ, cho họ sự cảnh cáo, khiến hắn không dám phạm tội thì tốt hơn. Không khoan thứ là bất nghĩa; khiến họ không tái phạm là nghĩa. Đó gọi là việc nghĩa mà dường như bất nghĩa.
Lễ độ là một đức tốt mọi người nên học nhưng cần có mức độ. Đối đãi người lễ độ là đúng, song nếu quá đáng, trở lại khiến người trở nên kiêu ngạo, hay thành ra nịnh nọt, cúi lòn thì là phi lễ.
Chữ tín rất quan trọng, song phải xem tình hình. Ví dụ như vì giữ chữ tín nhỏ mà làm lỡ việc lớn, làm mất đi chữ tín lớn thì đó không phải là tín.
Yêu thương người vốn là lòng từ, song nếu yêu thương quá đáng, trở lại khiến người ỷ lại, hư hỏng thì đó không phải là lòng từ. Cho nên phải suy nghĩ kỹ vấn đề này, phán đoán cẩn thận.
Sao gọi là thiên ở trong chính và chính ở trong thiên?
Tể tướng triều Minh trước đây là Lã Văn Ý khi vừa từ chức Tể tướng về quê, vì ông làm quan thanh liêm nên toàn dân đều hết sức kính trọng. Song không ngờ có một người nhà quê sau khi uống rượu say, mắng Lã công. Lã công không vì thế mà nóng giận còn nói với người làm của mình: “ Tên này uống rượu nói say, không nên chấp nhất”.
Lã công liền đóng cửa, không để ý đến. Một năm sau, tên này phạm tội chết bị đưa vào ngục. Lã công mới hối hận bảo: “ Nếu lúc đó dạy cho hắn một bài học, đưa đến quan phủ trị tội, có thể trị tội nhỏ để ngăn tội lớn, thì đâu đến đỗi có ngày nay hắn bị tử hình. Ta lúc đó chỉ vì không lỡ mới tha, không ngờ trở lại làm hại hắn”.
Tên đó ban đầu ngỡ là ngay cả mắng Tể tướng cũng không sao nên mới tiếp tục phạm tội, gây nên kết quả phạm tội phải chịu tử hình. Đó là ví dụ về người có tâm thiện mà lại làm việc ác.
Cũng có khi tâm ác mà làm việc thiện. Ví dụ như có một nhà giàu gặp năm đói kém, người nghèo đói ban ngày cướp gạo ở chợ, gây nhiễu loạn. Người nhà giàu bèn đi thưa đến quan huyện. Quan huyện lại không chịu xử vụ này. Những người nghèo càng lộng hành, ngang nhiên lấy của người. Người giàu bèn cho người bắt giam những tên đó lại. Nhũng người khác thấy vậy không dám cướp giật nữa. Nhờ vậy chợ hết loạn.
Sở dĩ ai cũng đều biết làm thiện là chính đáng và làm ác là thiên lệch nhưng tâm tuy thiện là chính mà việc làm hóa ra là thiên lệch nên gọi đó là thiên ở trong chính; còn tâm tuy ác mà việc làm hóa ra thiện đó chính là ở trong thiên vậy. Đạo lý này mọi người phải suy nghĩ kỹ.
Sao gọi là việc thiện phân nửa và trọn vẹn?
Ngày xưa có một cô gái rất nghèo đến chùa lễ Phật, chỉ có hai đồng tiền đem ra cúng dường hết. Không ngờ vị hòa thượng trụ trì lại đích thân đến trước Phật đài hồi hướng công đức, cầu tiêu trừ tội chướng cho cô. Sau này, cô ta được cho vời vào cung làm Quý phi. Sau khin giàu có, cô mang mấy ngàn lạng bạc đến chùa cúng. Nhưng lần này hòa thượng trụ trì lại sai đệ tử của mình hồi hướng cho cô. Cô này không hiểu tại sao lần trước cúng dường ít lại được hòa thượng trụ trì coi trọng còn lần này lại không ,mới hỏi: “ Con lần trước chẳng qua chỉ cúng dường hai đồng tiền, thầy lại đích thân hồi hướng. Lần này con cúng dường hai ngàn lạng bạc, thầy lại không đích thân hồi hướng cho con, không biết là vì lý do gì? ”.
Vị trụ trì trả lời: “ Trước đây con cúng dường tuy ít song vô cùng chí thành chí thiết nên thầy nếu không đích thân hồi hướng e không xứng với tâm thành này. Nay con cúng dường tuy nhiều song không chí thiết chí thành như lần trước cho nên thầy cho người hồi hướng thay cũng đủ!’’.
Vì vậy, hai đồng tiền chúng dường vẫn kể là việc thiện trọn vẹn, hai ngàn lạng bạc vẫn coi là việc thiện phân nửa.
Vào triều Hán, đạo sĩ Chung Ly đem phương pháp luyện đơn của mình truyền cho Lã Động Tân, có thể chỉ sắt hóa vàng, đem ra cứu giúp cho người nghèo. Lã Động Tân hỏi Chung Ly: “ Sắt biến thành vàng, xin hỏi bao lâu lại biến thành sắt?’’. Chung Ly đáp: “ Sau năm trăm năm sẽ biến thành sắt”. Lã Động Tân bảo: “ Như vậy sẽ hại người năm trăm năm sau. Tôi không muốn làm việc như vậy”.
Chung Ly dạy Lã Động Tân điểm sắt hóa vàng chẳng qua là muốn thử tâm của ông mà thôi. Cho nên khi nghe Lã Động Tân nói như vậy , biết là ông có tâm lành chân thật, mới nói: “ Tu tiên phải tích chứa đủ ba ngàn việc công đức. Ông nói được một lời như vậy thì ba ngàn công đức đã đủ”. Đây chỉ là một lời nói mà công đức viên mãn.
Lại nữa, làm việc thiện không nên kể công hay thường nghĩ đến cho là mình làm được việc vĩ đại hơn người. Nếu tâm được vô chấp như vậy, cho dù chúng ta làm việc thiện gì bất luận lớn nhỏ, đều là công đức viên mãn. Còn như cả đời cố gắng làm việc thiện mà cứ chấp tướng, chấp công thì vẫn là việc thiện không viên mãn.
Có công mà không kể công thì mới được công. Có công mà kể công thì mất công.
Sao gọi là việc thiện lớn, việc thiện nhỏ?
Trước đây có một người tên gọi Vệ Trọng Đạt làm quan trong Hàn lâm học viện. Có một lần bị quỷ dẫn hồn đến địa phủ. Phán quan bảo Thư biện đem quyển sổ ghi công tội của ông khi ở trên dương gian cho xem. Khi sổ ác đem đến, việc ác ghi nhiều đến mức chất đầy cả sân, còn ghi việc thiện chỉ là một quyển sổ nhỏ. Phán quan lại bảo đem hai loại sổ ghi thiện ác xem bên nào nặng, bên nào nhẹ. Không ngờ, số lượng sổ ghi việc ác tuy nhiều song lại nhẹ hơn một quyển sổ nhỏ ghi việc thiện.
Vệ Trọng Đạt lúc đó hỏi: “ Tôi chỉ có bốn mươi tuổi, lẽ nào lại phạm nhiều tội ác như thế sao?” thì Diêm Vương bảo: “ Mỗi một niệm ác kể là một tội không cần đợi tới lúc có phạm phải hay không”. Vệ Trọng Đạt lại hỏi quyển sổ ghi việc thiện kia là điều thiện gì. Diêm Vương trả lời: “ Vua từng có lần định xây cầu đá ở Tam Sơn là công trình rất lớn. Người từng tâu sớ lên can ngăn việc này để tránh làm khổ cho dân”. Vệ Trọng Đạt bảo: “ Tôi có trình lên, song vua lại không nghe lời, vẫn cứ tiến hành. Vậy việc tấu sớ của tôi cũng có giá trị sao?”. Diêm Vương bảo: “ Vua tuy không nghe lời can gián nhưng một niệm thiện đó của nhà ngươi là vì lợi ích của toàn dân, muốn cho trăm họ khỏi bị lao công vất vả, khỏi bị sưu cao thuế nặng. Nếu vua nghe lời thì công đức đó càng lớn”.
Cho nên, nếu có chí nguyện làm việc lợi ích cho muôn dân, cho xã hội thì tuy việc làm đó có nhỏ mà công đức lại lớn, còn nếu chỉ nghĩ làm lợi riêng cho mình thì tuy có làm nhiều mà công đức cũng chẳng bao nhiêu.
Sao gọi là việc thiện khó làm và dễ làm?
Các bậc uyên thâm nho học đều nói: “ Khắc chế lòng tư dục của mình phải bắt đầu từ nơi khó trù nhất ra tay”. Tức tiêu trừ cái tâm riêng tư, lo cho cái tôi của mình. Đức Khổng Tử bàn về nhân ái cũng nói bắt đầu từ chỗ khó mà thi hành trước, bởi lẽ khó mà làm được thì dễ ắt cũng làm xong.
Như Thư tiên sinh ở tỉnh Giang Tây , ông dạy học ở nhà người được hai năm, dùng tất cả tiền lương giúp đỡ cho một gia đình nghèo trả nợ, cứu cho họ khỏi cảnh bán vợ đợ con.
Lại như Trương tiên sinh ở huyện Hàm Đan, tỉnh Hà Bắc, ông trông thấy người nghèo đem cầm vợ đợ con song tiền thì đã tiêu hết cả. Nếu không có tiền đi chuộc vợ con e rằng họ không sống được. Do đó, ông đem hết số tiền mình dành dụm trong mười năm ra chuộc lại vợ con cho người đó. Trương tiên sinh và Thư tiên sinh thật là làm được việc thiện khó làm, những người khác khó làm được như vậy.
Lại như ở huyện Trấn Giang, tỉnh Giang Tô có một vị họ Cận, tuy tuổi lớn mà không có con trai. Một người hàng xóm nghèo đồng ý gả con gái của mình cho ông làm thiếp, mong sinh cho ông một mụn con trai. Song ông họ Cận này đã từ chối, đem hoàn trả lại vì không muốn làm lỡ tuổi xuân của cô ta. Trước sắc đẹp mà có thể nhẫn nại được thật là việc khó nhẫn, mà vị họ Cận này lại nhẫn được. Đây là điều thiện khó làm. Những người nêu trên, xét lại cuộc đời của họ và con cháu sau này, đều hạnh phúc, thành đạt. Thế mới biết nhân quả luôn đúng.
Phàm là người có tiền, có thể muốn làm công đức so với người bình thường dễ hơn nhiều. Song, họ lại không chịu làm. Đó gọi là tự làm lỡ mình, đánh mất cơ hội tốt. Còn người nghèo cùng muốn làm phúc thật là rất khó, song nếu họ làm được mới thật sự đáng quý
HỌC ĐỨC KHIÊM TỐN
Ở chương ba đã bàn đến phương pháp tích thiện, chương này sẽ nói đến cách làm người. Sống trong xã hội, ta không thể không qua lại tiếp xúc với người khác. Cho nên cách làm người cũng phải hết sức chú ý. Trong cách làm người, điều quan trọng là khiêm tốn. Người khiêm tốn nhất định sẽ được nhiều người ủng hộ và tín nhiệm. Lại nữa, người biết khiêm tốn có thể học hỏi để đổi mới mỗi ngày, không những tiến bộ về mặt học vấn, kiến thức mà phương diện đạo đức, ứng xử…cũng không ngừng tiến bộ. Cho nên tất cả lợi ích, đều nhờ đức khiêm tốn mà có.
Chương này bàn về những lợi ích của đức khiêm tốn cũng như những ứng nghiệm mà đức tính này đem lại. Kính mong mọi người suy xét cẩn thận, đừng xem qua loa, nhất đinh sẽ được ích lợi lớn.
“ Kinh Thư ” nói: “ Tự mãn sẽ tổn hại, khiêm tốn được lợi ích”. Lời xưa thật đúng thay.
Quẻ Khiêm trong “ Kinh Dịch ” nói: “ Trong đạo lý của trời, không luận việc gì, nếu tràn đầy sẽ tổn giảm, còn khiêm tốn sẽ được lợi ích. Trong đạo lý của đất, không luận việc gì, nếu sung mãn sẽ tổn hại, không thể tốt đẹp mãi; còn nếu khiêm hạ1 sẽ được thấm nhuần không khô kiệt, giống như chỗ đất thấp sẽ có nước chảy đến, làm đầy nơi khiếm khuyết. Trong đạo lý của quỷ thần, phàm kiêu ngạo tự mãn sẽ khiến bị hại, khiêm tốn sẽ khiến được phúc. Còn trong đạo lý của người, ai cũng chán ghét kẻ kiêu ngạo tự mãn, yêu quý người khiêm tốn hạ mình,,.
Như vậy, trời đất quỷ thần và con người đều coi trọng khiêm hạ. Sáu mươi bốn quẻ trong “ Kinh Dịch,, nói đến đạo lý biến hóa trong trời đất âm dương dạy cho ta phương pháp làm người. Trong mỗi quẻ đều có kiết, có hung. Quẻ hung cảnh giác răn người bỏ ác làm lành. Quẻ kiết khích lệ người mỗi ngày một tiến bộ. Chỉ có quẻ khiêm hoàn toàn là việc kiết tường.
Tôi nhiều lần đi thi cùng với các bạn học, mỗi lần đều nhận thấy những thư sinh nghèo khi sắp thành đạt, trên nét mặt của họ điều hiện ra vẻ khiêm cung, an ổn rõ ràng.
Năm Tân Hợi, tôi đến kinh thành đi thi hội. Quê Gia Hội của tôi số người cùng đi thì có khoảng mười người, trong đó Đinh Kính Vũ là người trẻ tuổi nhất, lại vô cùng khiêm cung. Tôi bảo với Phí Cẩm Pha cũng là người cùng đi thi: “ Đinh Kính Vũ năm nay nhất định thi đậu ”. Phí Cẩm Pha hỏi: “ Làm sao mà biết?,,. Tôi bảo: “ Chỉ có người khiêm tốn mới được hưởng phúc báo. Ông nhìn xem trong số mười người chúng ta có ai thành thật, trung hậu, khiêm nhường như Kính Vũ không? Có ai bị nhục mạ, hủy báng mà vẫn im lặng như Kính Vũ không? Một người làm được như vậy thì trời đất quỷ thần sẽ bảo hộ cho họ, sao lại không thành đạt?” . Sau đó, quả nhiên Kính Vũ thi đỗ.
Năm Đinh Sửu, tôi ở chung phòng với Phùng Khai Chi tại kinh thành, trông thấy ông ta rất khiêm tốn, nét mặt luôn tỏ ra hòa nhã, không có chút kiêu ngạo, hoàn toàn thay đổi so với tính khí ông ta lúc nhỏ. Ông ta có một người bạn tính tình chính trực tên là Lý Tề Nghiêm thường phê bình ông ngay trước mặt. Mỗi khi như vậy, Phùng Khai Chi đều hòa nhã tiếp thu lời phê bình của bạn, không hề phản đối một câu. Tôi bảo với Phùng Khai Chi:” Một người được hưởng phúc, phúc đức đó nhất định có nguyên nhân của nó; một người gặp họa, tai họa đó nhất định có nguyên nhân của nó. Chỉ cần tâm của ta khiêm tốn, trời sẽ gia hộ. Ông năm nay nhất định sẽ thi đỗ”. Sau đó, quả nhiên Phùng Khai Chi có tên trên bảng vàng.
1 Khiêm hạ: Khiêm tốn, hạ mình
Năm Nhâm Thìn, tôi vào kinh ra mắt vua, trông thất một thư sinh tên Hạ Kiến khiêm tốn nhún nhường, không có một chút kiêu ngạo. Khi trở về tôi bảo với bạn bè: “ Phàm trời muốn cho người nào được thành đạt thì trước hết khiến người đó phát trí tuệ. Trí tuệ này khiến họ tự nhiên từ giảo hoạt trở nên thành thật, từ phóng túng tự biết giữ mình. Hạ Kiến ôn hòa đôn hậu đến mức như vậy chứng tỏ đã phát trí tuệ, trời nhất định sẽ ban phúc cho ông ta”.
Sau đó, quả nhiên Hạ Kiến thi đậu.
Giang Âm có một thư sinh, tên là Trương Úy Nghiêm, học vấn uyên thâm, văn chương xuất sắc, rất nổi tiếng trong giới thư sinh. Trong kỹ thu Hương năm Giáp Ngọ, ông ta ở nhờ trong chùa đợi kết quả thi. Đến khi công bố kết quả, không ngờ lại không có tên ông. Ông không phục, mắng quan giám khảo là không có mắt, không thấy được chỗ hay trong văn của mình. Lúc đó, có một vị đạo sĩ đứng bên cạnh mỉm cười. Trương Úy Nghiêm bèn đem cơn giận của mình trút sang đạo sĩ. Đạo sĩ lại nói: “ Văn của ông nhất định không hay!”.
Trương Úy Nghiêm lại càng nóng giận bảo: “ Ông không có xem văn của tôi, tại sao lại biết nó không hay?”. Đạo sĩ trả lời: “ Tôi thường nghe người ta bảo: Làm văn quan trọng nhất là ở chỗ tâm bình, khí hòa. Nay thấy ông nóng giận mắng quan giám khảo, chứng tỏ trong tâm vô cùng bất bình, tính khí nóng nảy, thử hỏi như vậy văn làm sao mà hay được?”.
Trương Úy Nghiêm nghe xong không thể không phục, trở lại thỉnh giáo vị đạo sĩ. Đạo sĩ nói: “ Muốn thi đậu công danh, bản thân ông nhất định phải cải đổi”.Trương Úy Nghiêm hỏi: “ Số mệnh đã như vậy, làm sao mà thay đổi?”.
Đạo sĩ bảo: “ Tạo ra số mệnh tuy rằng ở nơi trời song quyền thay đổi lại ở nơi ta. Chỉ cần ông chịu khó làm việc thiện, tích âm đức thì có việc phúc gì mà không cầu được?”. Trương Úy Nghiêm bảo: “ Tôi là một thư sinh nghèo, biết có thể làm được việc thiện gì đây?”. Đạo sĩ nói: “ Làm việc thiện, tích âm đức đều xuất phát từ tâm. Chỉ cần tâm ta chí thành làm việc thiện là công đức vô lượng vô biên. Như khiêm tốn cũng là một việc thiện mà không phải bỏ tiền ra làm. Ông sao không biết tự xét lại để thấy khả năng của mình còn kém, trở lại mắng giám khảo bất công?”.
Trương Úy Nghiêm nghe lời đạo sĩ, từ đó về sau dẹp bỏ tâm kiêu mạn, chú ý tu tâm đổi tính, mỗi ngày đều gắng công làm lành, tích âm đức. Đến năm Đinh Dậu, một hôm ông nằm mơ trông thấy đến một nơi nhà cửa to lớn, nhìn thấy một danh sách thi đậu, trong đó còn nhiều chỗ để khuyết. Ông không hiểu mới hỏi người bên cạnh: “ Đây là cái gì?”. Người đó trả lời: “ Đây là danh sách thi đậu năm nay”.
Trương Úy Nghiêm lại hỏi: “ Sao trong danh sách lại có nhiều chỗ để khuyết?”. Đáp: “ Cõi âm đối với những người đi thi ba năm xét duyệt một lần, phải là người không có lỗi lầm, tích chứa âm đức mới có tên trong sổ này. Như phần trong danh sách để trống, đó là tên của những người lẽ ra thi đậu, song do vì phạm phải tội lỗi nên bị xóa tên”. Kế đó lại chỉ một hàng trong danh sách nói : “ Ông ba năm nay rất chú ý việc tu tâm, không có phạm lỗi, có lẽ sẽ bổ khuyết vào chỗ này. Hy vọng ông tự biết trân trọng, đừng phạm sai lầm”.
Sau đó, trong kỳ thi Hội, quả nhiên họ Trương được trúng tuyển hạng thứ một trăm lẻ năm.
Qua những chuyện đã xảy ra ở trên, chúng ta biết rằng, xung quanh đều có quỷ thần giám xét hành vi của mình. Do đó, việc lành lợi ích cho người phải nỗ lực làm; việc ác tổn hại đến người phải cố gắng tránh. Cho nên tất cả thiện ác, lành dữ đều do ta quyết định. Lòng mình giữ lương thiện , kiềm chế mọi hành vi bất thiện, không đắc tội với quỷ thần trời đất và khiêm tốn không kiêu ngạo tự mãn chính là căn bản của phúc đức. Còn những người kiêu ngạo nhất định không phải là bậc đại trượng phu, cho dù họ có thành đạt cũng chỉ một thời, không cách gì hưởng phúc lâu dài. Người không khiêm tốn không chịu học hỏi và cũng không ai thích dạy bảo cho họ.
Khiêm tốn vô cùng quan trọng, có thể giúp ta học hỏi được bao điều hay lẽ phải, nhất là trong việc tu dưỡng đạo đức, khiêm tốn đóng một vai trò quan trọng hàng đầu.
Cổ nhân có câu: “ Cầu công danh được công danh, cầu giàu sang được giàu sang”. Người có chí lớn như cây có rễ sẽ sinh ra cành lá, hoa trái.
Muốn thành tựu được chí lớn, người ta phải tâm tâm niệm niệm khiêm tốn, có việc gì lợi ích cho người, dù nhỏ mảy may, cũng ra sức làm. Như vậy sẽ tự nhiên cảm động đến trời đất.
Tích phúc cải mệnh hoàn toàn ở nơi ta. Chỉ cần ta quyết tâm làm là được. Những người mưu cầu công danh hiện nay, thật ra không có quyết tâm, hằng tâm, chân tâm mà chỉ tùy hứng, tùy tiện nhất thời. Mạnh Tử nói về Tề Tuyên Vương:
- Đại vương yêu thích âm nhạc, nếu yêu thích đến đúng mức thì có thể khiến vận mệnh nước Tề hưng thịnh. Nhưng Đại vương yêu thích âm nhạc chỉ vì tìm cầu niềm vui cho cá nhân mà thôi. Nếu Đại vương biết đem tâm tìm cầu niềm vui cho riêng mình, mở rộng ra, khiến có thể cùng nhân dân chia sẻ niềm vui, khiến mọi người được vui, thì lo gì vận mệnh nước Tề không hưng hưng thịnh.
Tôi nghĩ việc cầu công danh đạo lý cũng như vậy. Phải thực hiện việc cầu công danh này dựa trên tâm tích đức hành thiện, đồng thời phải gắng hết sức mình làm thì vận mệnh và phúc báo đều do ta quyết định.
Thưa các bạn, xem hoặc nghe xong sách Tích phúc cải mệnh này trong tâm bạn chắc có nhiều xúc cảm, được lợi ích không nhỏ. Đây là một quyển sách cảm động và thanh tịnh hóa lòng người. Về mặt văn chương, quyển sách này tuy bề ngoài dễ hiểu, song thực ra trong đó chứa đựng biết bao triết lý nhân sinh sâu xa, cần phải dụng tâm thể nhận mới thấy được giá trị của nó.
Cho nên, kính mong các vị nghe xong hãy nghe đi nghe lại nhiều lần, đọc xong hãy đọc đi đọc lại nhiều lần để củng cố, tăng trưởng tín tâm, học theo gương của Liễu Phàm tiên sinh, bỏ ác làm lành, tu nhân tích đức để cải đổi mệnh vận xấu ác, khổ đau thành mệnh vận tốt đẹp, hạnh phúc cho mình. Tương lai thật ra ỏ trong tay chúng ta, không chỉ về mặt tiền tài, công danh, sự nghiệp, gia đình …cho đến trở thành thánh hiền đều dựa trên căn bản này mà thành tựu mỹ mãn.
HẾT
+ PHẢN HỒI CỦA BẠN ĐỌC VỀ BÀI VIẾT:
- ĐỆ TỬ QUY (22/10/2013)
- Ấn Độ ấn hành bộ kinh Phật cổ quý hiếm (09/05/2012)
- Kinh Vô Lượng Thọ Phật (02/05/2012)
- Phật Nói Kinh Kiến Chánh (02/05/2012)
- Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo (02/05/2012)
- Kinh Đại Bảo Tích Pháp Hội Phật Pháp Đại Thừa (02/05/2012)
- Kinh Kim-Cang Bát-Nhã Ba-La-Mật (02/05/2012)