Chào mừng quý vị ghé thăm website của chùa  Linh Sơn Tự

Số lượt xem: 2432
Gửi lúc 10:20' 02/05/2012
Kinh Đại Bảo Tích Pháp Hội Phật Pháp Đại Thừa

LỜI NÓI ĐẦU CỦA DỊCH GIẢ

Trong Khế Kinh, Đức Phật nói: "Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhứt mà Đức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
Lời Đức Phật thật đơn giản, mà ý nghĩa lại tột cùng sâu rộng. Trong lời đó có nghĩa cứu cánh bình đẳng. Phật và chúng sanh không có sai khác. Còn có nghĩa là hiện tại mỗi chúng sanh đều có đủ tánh đức đồng như Phật. Cũng có nghĩa là nếu chúng sanh có lòng tin thanh tịnh, y giáo phụng hành thì quyết sẽ thành Phật, như trong đại thừa, Kinh thường có câu, chính Đức Phật dạy: "Các người là Phật sẽ thành, còn chư Phật là Phật đã thành".
Vì thấy rõ tất cả chúng sanh đều có khả năng thành Phật nên Đức Phật ra đời, dùng thân khẩu truyền cho đời những phương cách, những pháp môn làm điều kiện cụ thể để bước lên đường Phật, để rồi đến quả Phật. Những phương pháp cụ thể đó gọi là Phật Pháp.
Vì các chúng sanh căn không đồng nhau, tánh không đồng nhau, ý thích cùng sự mong muốn vân vân... cũng không đồng nhau, nên Đức Phật phải theo cơ mà dạy rất nhiều pháp môn, nhiều đến phải dùng từ "Vô lượng pháp môn". Dầu là vô lượng, nhưng nếu mỗi chúng sanh y theo một pháp môn, đúng với căn tánh thích muốn của chính mình rồi, quyết tâm hiểu rõ hành trì thật đúng, thật bền, thật sâu, thì nhất định đạt thành đạo quả.
Như trên nói mọi chúng sanh đều có đủ đức tính đồng như Phật chỉ vì điên đảo vọng tưởng, hư vọng, phân biệt, dục tham phiền não che chướng, nên những tánh đức trong sáng sẵn có ấy không hiện thật. Tất cả pháp môn của Đức Phật dạy, những phương pháp mà Đức Phật, lúc hành đạo, đã thật hành, đã hiểu rõ, đã kinh nghiệm và do đó đã đạt kết quả cứu cánh, nay đem truyền dạy lại cho mọi người, đều nhằm vào việc phải trừ những đảo tưởng phân biệt, dục tham phiền não, để cho tánh đức sẵn có phát hiện tác dụng. Vì đó là sẵn có nên Đức Phật tự nói: "Ta không có một chút pháp gì để thành vô thượng bồ đề cả". Phật pháp là phương tiện đưa người vào đạo, liều thuốc chữa trị bịnh hư vọng phiền não, là cách thức rửa lau những đảo tưởng như lau bụi trên mặt gương, mà tuyệt đối không có chút gì là có, là được, vì đạo là tánh đức sẵn đủ vậy.
Phật pháp vô lượng môn cô đọng lại trong ba môn vô lậu: Giới, Định và Huệ. Vô lậu giới để phòng ngừa, để ngăn đảo vọng. Vô lậu định để chận đứng, để đối trừ đảo vọng. Vô lậu huệ dứt sạch đảo vọng. Và tùy theo giai đoạn mà đảo vọng từng phần được dứt trừ, thì tánh đức sẵn có của hành giả cũng từng phần thể hiện, đó là các bực Hiền, các bực Thánh, các bực Bồ Tát. Cho đến lúc tất cả đảo vọng sạch trọn vẹn, thì tánh đức thể hiện trọn vẹn, đó là quả Phật, là thành Phật.
Trong bộ Kinh Đại Bửu Tích nầy, nội dung không ngoài những điều đã nêu ở trên, dầu là rất nhiều, rất rộng.
Trong thập niên năm mươi, tôi được đọc tụng bộ Kinh nầy từ bản phương sách của Bắc bộ Việt Nam ta, bản Hán văn, tôi đã có hoài bão phiên dịch ra Việt văn để được thông dụng theo thời đại. Mãi đến năm 1979 mới hoàn thành bộ Việt văn, và đến nay ngót mười năm mới có đủ duyên để được đem ra ấn hành lần đầu tiên. Mong rằng sự ấn loát và lưu hành đều tốt đẹp như ý muốn.
Cầu nguyện tất cả mọi người, mọi thí chủ, hoặc thiện chí hoặc công sức, hoặc tịnh tài, đều tròn đầy phước lạc.


Viết tại chùa Vạn Đức, Thủ Đức
Mùa An Cư, ngày 12-7-1987
Phật lịch 2531
Tỳ kheo Thích Trí Tịnh


 



KINH ĐẠI BẢO TÍCH
PHÁP HỘI PHẬT PHÁP ĐẠI THỪA

Hán dịch: Nhà Nguyên Ngụy, Pháp Sư Phật Đà Phiến Đa
Việt dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh



    Tôi nghe như vậy, một lúc Đức Thế Tôn ở đại thành Vương Xá trong núi Linh Thứu cùng câu hội với năm trăm Tỳ Kheo Đại A La Hán và vô lượng vô biên Đại Bồ Tát.
    Trong chúng hội có một Đại Bồ Tát tên là Tịnh Vô Cấu Bửu Nguyệt Vương Quang rời chỗ ngồi trịch vai hữu, gối hữu quỳ trên đài liên hoa đến trước Đức Phật chấp tay bạch rằng:
    Bạch Đức Thế Tôn! Tỳ Kheo hành đại thừa, trụ đại thừa; hành đại thừa thế nào, trụ đại thừa thế nào? Bạch Thế Tôn! Do nghĩa gì mà đại thừa ấy gọi là đại thừa, lại do nghĩa gì mà gọi là trụ đại thừa?
    Đức Phật phán:
    Lành thay, lành thay! Nầy Tịnh Vô Cấu Bửu Nguyệt Vương Quang! Ông có thể khéo hỏi nghĩa thậm thâm ấy. Lắng nghe, lắng nghe, khéo suy nghĩ! Nay ta vì ông mà phân biệt giải nói.
    Ngài Tịnh Vô Cấu Bửu Nguyệt Vương Quang Bồ Tát nghe Đức Phật hứa dạy liền bạch rằng:
    "Vâng! Bạch Đức Thế Tôn! Con xin đảnh thọ thánh giáo."
    Đức Phật phán dạy:
    "Nầy Thiện Nam Tử! Đại Bồ Tát thành tựu mười pháp là hành đại thừa, là trụ đại thừa. Những gì là mười?
    Một là tín thành tựu. Hai là hạnh thành tựu. Ba là tánh thành tựu. Bốn là ưa thích tâm Bồ Đề. Năm là thích nơi pháp. Sáu là quán chánh pháp hạnh. Bảy là hành pháp thuận pháp. Tám là xả bỏ mạn đại mạn. Chín là khéo hiểu giáo pháp bí mật của Như Lai. Mười là tâm chẳng mong cầu Thanh văn thừa và Duyên giác thừa."
    Ngài Tịnh Vô Cấu Bửu Nguyệt Vương Quang Bồ Tát bạch rằng:
    "Bạch Đức Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ Tát tín thành tựu nhẫn đến tâm chẳng mong cầu nhị thừa?"
    Đức Phật dạy:
    "Nầy Thiện nam tử! Đại Bồ Tát hành hạnh chẳng dua vạy, được hạnh nhu nhuyến. Bồ Tát ấy tin Bồ Đề Vô thượng chánh chơn chánh giác của chư Như Lai. Tin chư Như Lai ở trong một niệm nói sự việc cả ba đời. Tin Như Lai tạng bất lão bất tử vô lượng vô biên bất sanh bất diệt bất thường bất đoạn. Tin chư Phật biết tất cả thiệt tế pháp giới, chỗ biết của đấng nhứt thiết trí, Phật lực, vô sở úy, pháp bất cộng. Tin tưởng vô kiến đảnh của chư Phật. Tin ba mươi hai tướng của chư Phật và tám mươi tùy hảo trang nghiêm thân Phật, thân Phật có viên quang. Tin chỗ nói của Thanh văn, của Duyên giác, của Bồ Tát và tin những lời nói lành. Tin đời nầy đời trước. Tin người chánh hạnh, người trụ chánh hạnh, hoặc đó là Sa môn hay Bà La môn. Tin nghiệp quả lành rất đáng ưa thích là vi diệu tối thắng, những là chư thiên và thiên vương, chư nhơn và nhơn vương. Tin nghiệp quả bất thiện chẳng đáng ưa thích, là khổ não vô lượng, những là tại địa ngục hoặc tại ngạ quỷ, tại súc sanh.
    Tin như vậy rồi, Bồ Tát ấy rời lìa ba pháp: một là ngu, hai là mê lầm, ba là chẳng quyết định.
    Nầy Thiện Nam Tử! Đại Bồ Tát thành tựu đức tin như vậy thì gọi là tín thành tựu."
    Đức Thế Tôn vì hiển thị nghĩa ấy nên lại nói kệ rằng:
    "Tin người là tăng thượng thừa
    Người tin là Phật tử
    Thế nên người có trí
    Phải thường thân cận tin
    Tin là pháp tối thượng
    Người tin không nghèo thiếu
    Thế nên người có trí
    Phải thường thân cận tin
    Nếu là người bất tín
    Chẳng sanh các pháp lành
    Dường như hột giống cháy
    Chẳng mọc được mầm rễ.
    Nầy Thiện nam tử! Thế nào là đại Bồ Tát hạnh thành tựu?
    Nầy Thiện nam tử! Vì hạnh thành tựu, Đại Bồ Tát cạo bỏ râu tóc mặc pháp phục bỏ nhà xuất gia. Đã xuất gia rồi, tu học giới và hạnh Bồ Tát, cũng tu học giới hạnh Thanh văn và giới hạnh Duyên giác. Tu học như vậy rồi, nơi thân khẩu ý nghiệp của Bồ Tát ấy, ác nghiệp đều tiêu diệt.
    Những gì gọi là thân nghiệp bất thiện? Đó là sát sanh, trộm cướp và tà dâm. Dùng ngói đá dao gậy ném đánh người khác làm thương tổn tay chân v.v... hoặc đến hoặc đi làm những sự tà dâm. Đó gọi là nghiệp bất thiện của thân.
    Những gì gọi là khẩu nghiệp bất thiện? Đó là vọng ngôn, ỷ ngữ lưỡng thiệt và ác khẩu, những ngôn thuyết bất thiện, chê bai hủy báng những chánh pháp, những kinh điển đại thừa thậm thâm, rao nói chỗ lỗi dơ của Hòa thượng, A xà lê v.v... những người an lạc trong chánh pháp. Đó gọi là khẩu nghiệp bất thiện.
    Nầy Thiện nam tử! Những gì gọi là ý nghiệp bất thiện? Đó là quá nhiều tật đố, lẫn tiếc và tà kiến. Tiếc ganh về lợi danh tham ái v.v..., cậy nhà, cậy sắc, ỷ trẻ mạnh, ỷ không bịnh, ỷ thọ mạng, ỷ đa văn, ỷ tu hành quán niệm ái dục, sát hại, sân não v.v... và quan niệm quốc gia, y phục, ẩm thực, ham chỗ ở, xe cộ, giường nệm v.v... ham ăn, ham uống, ham con cái trâu bò cày cấy, lo tôi tớ, lo người làm công và lúa gạo vải lụa kho đụn những của cải. Hành giả ham những sự ấy rồi, nếu có một sự tổn thất thì trong lòng lo buồn khổ não. Hành giả do tham ái tưới ướt nội tâm nên sanh những manh nha ở tâm sau. Lược nói ý nghiệp không khác gì bánh xe lăn chuyển. Đó gọi là ý nghiệp bất thiện.
    Bồ Tát ấy rời lìa ác nghiệp nơi thân khẩu và ý, với Hòa Thượng tưởng là tôn trưởng, với A xà lê tưởng là bậc thầy, với những người khác hoặc già hoặc trẻ sanh lòng cung kính.
    Lúc ở một mình, Bồ Tát ấy nghĩ rằng: tôi không nên như vậy. Tôi đã phát khởi tâm độ hết tất cả chúng sanh an trụ trong chánh định hạnh. Hiện nay tự thân tôi các căn chẳng điều, tu hành chẳng siêng. Tôi phải siêng tu hành điều nhiếp các căn. Tôi tu hành như vậy, các chúng sanh thấy tôi tâm họ điều phục tùy thuận lời dạy bảo của tôi. Chư Phật hoan hỷ. Chư Thiên Long bát bộ cũng hoan hỷ.
    Nầy Thiện nam tử! Như thế đó gọi là biết tự hổ. Bồ Tát ấy lại nghĩ rằng: chớ để người đạo kẻ tục quở trách được tôi, nơi thân khẩu ý nghiệp các oai nghi: những là hủy hoại giới hạnh hoặc về kiến hạnh, hoặc về hành hạnh, hoặc làm tà mạn.
    Bồ Tát ấy thật hành sự tự hổ ấy rồi, ngày đêm quán sát giới hạnh, quán sát giới hạnh xong rồi không có những lo sầu rời lìa những chướng ngại. Tu hành như vậy xong, ở trong chánh pháp của chư Phật, Bồ Tát ấy tu tập các công hạnh. Những công hạnh ấy gọi là Bồ Tát thiện.
    Nầy Thiện nam tử! Bồ Tát thành tựu những hạnh như vậy, gọi đó là hạnh thành tựu."
    Vì hiển thị nghĩa ấy, Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
    "Hạnh là tăng thượng của
    Phật thừa và nhị thừa
    Vì thế nên người trí
    Tu những hạnh vi diệu
    Bồ Tát tiếng tăm lớn
    Thành tựu hạnh vô úy
    Nên chứng được Bồ Đề
    Của chư Phật đã nói.
    Nầy Thiện nam tử! Thế nào là Đại Bồ Tát tánh thành tựu?
    Nầy Thiện nam tử! Đại Bồ Tát tánh tự ít tham dục sân hận, ngu si, chẳng tiếc lẫn, chẳng rít rắm, chẳng thô bạo, chẳng ngã mạn, chẳng nóng vội, điều hòa nhu nhuyến, lời lành dịu dàng, dễ cùng ở chung.
    Bồ Tát ấy đối với tất cả sự cúng dường thượng thắng đúng như tâm dâng hiến, những vật sở hữu y phục uống ăn chia cấp cho người. Thí xả xong liền sanh lòng vui mừng hớn hở, nhẫn đến xả thí những phần trên thân thể.
    Thật hành hạnh ấy, Bồ Tát thấy Như Lai hoặc hàng Thanh Văn lòng rất hoan hỷ."
    Đại Bồ Tát thành tựu pháp như vậy gọi đó là tánh thành tựu.
    Vì muốn hiển thị nghĩa ấy, Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
    "Thấy khói liền biết lửa
    Thấy uyên ương biết nước
    Tướng lạ biết Bồ Tát
    Bồ Tát đại trí huệ
    Chẳng rít chẳng não chúng
    Những hạnh dua vạy
    Vì khéo tin chúng sanh
    Đây gọi Bồ Tát tánh.
    Nầy Thiện nam tử! Thế nào gọi là Đại Bồ Tát ưa thích tâm Bồ Đề?
    Nầy Thiện nam tử! Đại Bồ Tát vì có tướng Bồ Đề nên phát tâm Bồ Đề. Lúc chưa phát tâm Bồ Đề hoặc chư Phật Như Lai, hoặc chư Thanh văn khuyên phát Tâm Bồ Đề. Đây là tướng sơ phát tâm của Bồ Tát.
    Nầy Thiện nam tử! Bồ Tát ấy nghe nói có Bồ Đề, nghe tâm Bồ Đề có công đức lớn, nghe rồi phát tâm vô thượng Bồ Đề. Đây là tướng thứ hai phát tâm Bồ Đề của Bồ Tát.
    Nầy Thiện nam tử! Bồ Tát ấy thấy các chúng sanh không có chủ, không có người thân, không ai cứu ai hộ, không ai độ được khiến họ đến bỉ ngạn. Bồ Tát liền vì các chúng sanh ấy mà sanh lòng từ bi mà nói rằng: tôi sẽ làm người cứu hộ cho các chúng sanh bơ vơ ấy. Vì nhơn ấy mà Bồ Tát phát tâm vô thượng Bồ Đề. Đây là tướng thứ ba phát tâm Bồ Đề của Bồ Tát.
    Nầy Thiện nam tử! Bồ Tát ấy vì thấy thân tướng đầy đủ của Như Lai mà sanh lòng vui mừng, sanh lòng phấn khởi. Do nhơn duyên nầy mà Bồ Tát phát tâm vô thượng Bồ Đề. Đây là tướng thứ tư phát tâm Bồ Đề của Bồ Tát.
    Nầy Thiện nam tử! Bồ Tát ấy vì làm lợi ích cho các chúng sanh kia, cho họ được an ổn vui vẻ nên tu các hạnh bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và bát nhã.
    Nầy Thiện nam tử! Thế nào là Bồ Tát tu hạnh bố thí?
    Nầy Thiện nam tử! Bồ Tát suy nghĩ rằng: tôi phải bố thí thế nào? Tôi phải làm như vậy: cần ăn cho ăn, cần uống cho uống, cần giường nệm cho giường nệm, cần y phục, nón mũ, giày dép, đồ trang sức vân vân đều cho tất cả, nhẫn đến cắt thịt thân mình mà bố thí. Bố thí như vậy nguyện lấy vô thượng Bồ Đề, mà chẳng cầu lấy phước báo tài vật, chẳng cầu an trụ nơi sự tướng. Đây gọi Bồ Tát thật hành bố thí.
    Nầy Thiện nam tử! Thế nào là Bồ Tát tu trì giới hạnh?
    Nầy Thiện nam tử! Bồ Tát ấy trước tiên tự điều thuận thân nghiệp, điều thuận khẩu nghiệp, điều thuận ý nghiệp. Tất cả ác nghiệp đều bỏ rời. Giữ gìn giới hạnh chẳng khuyết giảm, chẳng sót chẳng tạp. Trì giới như vậy hồi hướng vô thượng Bồ Đề, mà tâm Bồ Tát ấy chẳng hề nắm lấy giới. Đây gọi là Bồ Tát tu hạnh trì giới.
    Nầy Thiện nam tử! Thế nào là Bồ Tát tu hạnh nhẫn nhục?
    Nầy Thiện nam tử! Bồ Tát nếu nghe kẻ đạo người tục hoặc mắng nhiếc nói xấu, hoặc đánh đập trói trăn, hoặc chặt tay chưn vân vân đều nhẫn nhục cả. Tu hạnh nhẫn nhục như vậy, Bồ Tát hồi hướng vô thượng Bồ Đề, chẳng vì nhẫn như vậy mà sanh lòng kiêu mạn. Đây gọi là Bồ Tát tu hạnh nhẫn nhục.
    Nầy Thiện nam tử! Thế nào là Bồ Tát tu hạnh tinh tiến?
    Nầy Thiện nam tử! Bồ Tát suy nghĩ rằng hư không giới vô lượng vô biên, chúng sanh giới cũng vô lượng vô biên, chỉ tôi một người, riêng không đồng bạn làm cho nhập vào vô dư niết bàn giới. Vì nhơn duyên ấy mà Bồ Tát phát khởi hạnh tinh tiến: ban đầu nhiếp trì tự tâm. Nhiếp trì tự thân rồi quán thọ, quán tâm pháp. Chánh quán nơi thọ tâm và pháp rồi hành trì tâm hạnh. Đã hành trì tâm hạnh rồi kế đến tiến tu hành trì các hạnh thấy pháp vân vân. Trì tâm ý như thế xong, vì làm cho những ác bất thiện chưa sanh phải dứt diệt chẳng sanh, nên Bồ Tát phát khởi dục cần tinh tiến. Kế đến Bồ Tát lại tu hành sơ như ý túc, đệ nhị, đệ tam và đệ tứ như ý túc. Tu hành như vậy chẳng sanh tâm kiêu mạn. Đây là Bồ Tát tu hành tinh tiến.
    Nầy Thiện nam tử! Thế nào gọi là Bồ Tát tu hành thiền định?
    Nầy Thiện nam tử! Bồ Tát vì chẳng tham trước nơi dục, chẳng tham trước nơi diệt, chẳng tham trước nơi ly dục, chẳng tham trước tự thân, chẳng tham trước sắc thọ tưởng hành thức, chẳng tham trước dục giới, chẳng tham trước sắc giới, chẳng tham trước tha thân, chẳng tham trước nơi không, nơi vô tướng, nơi vô nguyện, chẳng tham trước thế giới hiện tại nầy, chẳng tham trước thế giới vị lai mà làm hạnh bố thí. Chẳng y chỉ nơi thí, nơi giới, nơi nhẫn nhục, nơi tinh tiến, nơi thiền định. Bồ Tát tu hạnh thiền định như vậy hồi hướng vô thượng Bồ Đề mà chẳng sanh phân biệt. Đây gọi là Bồ Tát tu hạnh thiền định.
    Nầy Thiện nam tử! Thế nào là Bồ Tát tu hạnh bát nhã?
    Nầy Thiện nam tử! Bồ Tát thường suy nghĩ rằng: tôi hóa độ chúng sanh. Hóa độ rồi lại nghĩ rằng: tôi hóa độ vô lượng vô biên chúng sanh giới khiến họ nhập vào vô dư niết bàn mà không có một chúng sanh nhập vào niết bàn giới. Tại sao vậy? Như Đức Phật đã dạy rằng tất cả pháp giới không có ngã, không có nhơn, không có chúng sanh, không có thọ mạng. Bồ Tát tu huệ như vậy hồi hướng vô thượng Bồ Đề. Nguyện như vậy mà ở nơi trí huệ chẳng sanh phân biệt. Đây gọi là Bồ Tát tu hạnh bát nhã.
    Nầy Thiện nam tử! Đại Bồ Tát phát tâm Bồ Đề như vậy, gọi là Bồ Tát ưa thích tâm Bồ Đề."
    Vì hiển thị nghĩa ấy, Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng:
    "Dường như chơn bửu châu
    Chẳng ngừng phát ánh sáng
    Lại như vàng trong mỏ
    Luyện xong càng thêm sáng
    Bồ Tát tánh như vậy
    Càng sáng tâm Bồ Đề
    Nhị biên thanh tịnh rồi
    Ma chẳng quấy hại được.
    Nầy Thiện nam tử! Thế nào là Bồ Tát ưa thích Chánh Pháp?
    Nầy Thiện nam tử! Đại Bồ Tát tánh tự ưa thích Chánh Pháp, vui mừng nơi Chánh Pháp và thắm nhuần nơi Chánh Pháp. Nếu thấy người biết nói Pháp, hoặc Sa Môn hoặc Bà La Môn, tùy vật sở hữu đều đem dâng cúng và chấp tay cung kính. Cung kính cúng dường rồi, từ nơi người biết pháp ấy mà được nghe pháp chưa từng được nghe. Cầu được chánh pháp như thế rồi, Bồ Tát như thiệt tu hành. Đối với người biết hành trì pháp ấy, Bồ Tát tưởng là Tôn trưởng, là Hòa Thượng, là A Xà Lê, quan niệm rằng từ lâu tôi mất bực Đạo sư nay bỗng được gặp nên tưởng là bực Đạo sư. Bồ Tát lại nghĩ rằng tôi thường bị hệ phược tại ngục tù thế gian không hiểu biết, không ai cứu, chẳng biết hỏi ai. Nay bỗng gặp Đạo sư. Bồ Tát lại nghĩ rằng: từ lâu tôi mãi ngủ ở thế gian ngu si như người mù, nay bỗng nhiên được người mở mắt cho. Bồ Tát lại nghĩ rằng: từ lâu tôi chìm sâu trong bùn không ai cứu vớt, nay bỗng được người vớt lên. Bồ Tát lại nghĩ rằng: từ lâu tôi mất bực đạo sư dẫn đạo chúng sanh, nay bỗng được gặp bực đạo sư. Bồ Tát lại nghĩ rằng: từ lâu tôi bị nhốt trong chỗ nghèo khổ hoạn nạn thế gian, không ai tiếp cứu, nay được gặp người tiếp cứu. Bồ Tát lại nghĩ rằng: từ lâu tôi mắc bệnh khó lành không có lương y điều trị được, nay gặp được lương y. Bồ Tát lại nghĩ rằng: từ lâu nay tôi bị lửa tham dục đốt cháy chưa nhờ mây lành mưa tưới, nay bỗng được mây lành tuôn mưa. Vì nhơn duyên thích pháp nên thấy như vậy, nên Bồ Tát nhẫn chịu những sự khổ não như lạnh, nóng, các chúng sanh hay làm não hại như muỗi mòng vân vân đều nhẫn chịu được, cũng nhẫn chịu được sự đói khát vân vân, thấy chúng sanh vui sướng chẳng sanh lòng ham muốn. Bồ Tát nghĩ rằng dầu tôi hưởng thọ sự khoái lạc thế gian, không bằng nếu tôi được nghe một câu Chánh Pháp, nghe xong có thể thành văn huệ, sanh ý tưởng văn huệ.
    Do vì ưa thích nơi Chánh Pháp như vậy, nên Bồ Tát làm việc bố thí chẳng có lòng ưu sầu nhẫn đến không hề có sự lo khổ. Vì thế mà Bồ Tát nghĩ rằng: tôi vì nghe một câu pháp của Đức Như Lai nói, dầu cho có vào ở A Tỳ địa ngục từ một kiếp đến trăm ngàn kiếp cũng không thấy khổ nhọc, mà tu hành nhứt thiết chủng trí. Nếu có người nào chưa được chánh pháp của Phật tôi có thể làm cho họ được.
    Nầy Thiện nam tử! Bồ Tát ưa thích nơi pháp như vậy thì gọi là Bồ Tát ưa thích nơi pháp."
    Vì muốn tuyên bày nghĩa ấy, Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng:
    "Người đại trí cầu pháp
    Đó là chư Bồ Tát
    Cầu pháp không chán đủ
    Do vì tâm cung kính
    Thường cầu nơi Chánh Pháp
    Gọi là tướng Bồ Tát
    Nghe rồi thường nhớ ghi
    Lại tu hành đúng pháp.
    Nầy Thiện nam tử! Thế nào là Bồ Tát quán chánh pháp hạnh?
    Nầy Thiện nam tử! Đại Bồ Tát quán như vầy: tất cả pháp như huyễn phỉnh gạt phàm phu vì họ ngu si không có chánh huệ. Tất cả pháp hư vọng như giấc mộng vì chỉ là niệm tưởng. Tất cả pháp như trăng trong nước vì chẳng phải là sự thiệt có. Tất cả pháp như tượng trong gương vì không chúng sanh. Tất cả pháp sanh diệt vì hư không và âm thanh sanh ra. Tất cả pháp bất sanh vì tánh chơn như. Tất cả pháp bất diệt vì là vô sanh. Tất cả pháp vô tác vì không có tác giả. Tất cả pháp như hư không vì không ô nhiễm. Tất cả pháp tịch tịnh vì thể tánh vô nhiễm. Tất cả pháp ly cấu vì lìa các cấu. Tất cả pháp vĩnh diệt vì vốn diệt phiền não. Tất cả pháp vô sắc vì chẳng thể thấy được. Tất cả pháp lìa tâm ý và ý thức, vì vô tâm. Tất cả pháp vô trụ vì diệt tất cả giới thủ. Tất cả pháp vô cầu vì lìa giây thân ái. Tất cả pháp vô trước vì lìa tất cả cảnh giới phiền não. Tất cả pháp như rắn độc vì không có sức phương tiện, chú thuật. Tất cả pháp như cây chuối vì chẳng chắc thiệt. Tất cả pháp như bọt nước vì tánh vô lực vậy.
    Nầy Thiện nam tử! Bồ Tát quán chánh pháp hạnh như vậy, thì gọi là Bồ Tát quán chánh pháp hạnh."
    Vì tuyên bày nghĩa ấy, Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
    "Tất cả pháp như huyễn
    Che đậy tâm chúng sanh
    Hư vọng như chiêm bao
    Phải thọ trì như vậy
    Pháp như trăng trong nước
    Vì bóng hình nổi lên
    Pháp như tượng trong gương
    Người trí phải xét biết.
    Nầy Thiện nam tử! Thế nào là Bồ Tát quán pháp thuận pháp?
    Nầy Thiện nam tử! Đại Bồ Tát dầu quán sắc vô thường mà chẳng do diệt sắc để chứng nhập pháp giới, như thiệt biết rõ các pháp tướng rồi khéo ghi nhớ khéo tu tập. Trong pháp giới ấy sở hữu các tướng chỗ có thuyết giả tu giả và ký giả, tự nhiên nhập vào pháp giới hạnh như vậy.
    Như với sắc, với thọ tưởng hành nhẫn đến thức, Bồ Tát dùng như thiệt quán sát rồi mà chẳng diệt thức, chẳng chán lìa thức để chứng nhập pháp giới. Tất cả các pháp sở hữu trong pháp giới, dùng như thiệt trí như thiệt chứng biết. Trong các pháp ấy có những danh tự đều khéo nói, khéo biết, khéo tu, khéo ghi nhớ. Do vì khéo biết, khéo tu và khéo ghi nhớ nên tự nhiên nhập pháp giới hạnh như vậy.
    Như quán biết vô thường, quán biết khổ vô ngã và bất tịnh cũng như vậy.
    Quán sắc vô thường khéo biết như vậy, ở trong sắc ấy chẳng còn sanh tưởng khủng bố. Tại sao vậy? Vì như thiệt biết sắc hư vọng sanh ra Bồ Tát khéo biết như thiệt như vậy. Thọ tưởng hành thức đều vô thường, khổ, vô ngã và bất tịnh, ở trong thọ tưởng hành thức và thức ấy chẳng sanh tưởng khủng bố. Tại sao vậy? Vì biết thọ chẳng hành và thức là hư vọng, Bồ Tát khéo biết như thiệt như vậy.
    Nầy Thiện nam tử! Ví như nhà ảo thuật khéo giỏi hóa thuật ra bốn binh chủng, đó là tượng binh, mã binh, xa binh, bộ binh. Người có trí biết đó là những thứ hư vọng do nhà ảo thuật hóa ra phỉnh gạt mọi người.
    Nầy Thiện nam tử! Bồ Tát quán sắc vô thường như vậy. Quán vô thường rồi ở trong sắc ấy chẳng sanh tưởng khủng bố. Tại sao vậy? Vì như thiệt biết sắc hư vọng sanh khởi. Bồ Tát khéo biết như thiệt như vậy.
    Nầy Thiện nam tử! Bồ Tát quán thọ đến thức vô thường như vậy. Quán vô thường rồi ở trong thọ đến thức chẳng sanh tưởng khủng bố. Tại sao vậy? Vì như thiệt biết thọ đến thức hư vọng sanh khởi, Bồ Tát khéo biết như thiệt như vậy.
    Nầy Thiện nam tử! Bồ Tát quán pháp thuận pháp như vậy."
    Bấy giờ Tịnh Vô Cấu Bửu Nguyệt Vương Quang Bồ Tát bạch rằng:
    "Bạch Đức Thế Tôn! Thế nào là Bồ Tát quán sắc vô thường, thế nào chẳng rời sắc nơi pháp giới chứng nơi pháp giới tập học pháp giới dùng sức trí huệ như thiệt chứng biết tất cả các pháp?"
    Đức Phật phán dạy:
    "Nầy Thiện nam tử! Vì ông hỏi nên nay ta nói ví dụ.
    Nầy Thiện nam tử! Ví như trong thế gian, người có trí lấy các chất độc, lấy chất độc rồi hoặc nấu, hoặc cạo, hoặc hiệp với chất thuốc khác. Hiệp với các chất thuốc khác rồi, vì tài lợi mà đem bán thuốc độc ấy, nhưng người trí nầy chẳng tự uống. Tại sao vậy? Vì người trí ấy suy nghĩ rằng chớ để thân tôi do thuốc độc nầy mà phải chết mất.
    Nầy Thiện nam tử! Đại Bồ Tát tâm thuận hướng đến niết bàn, tâm nhuần hướng đến niết bàn, tâm nhuần chủng về niết bàn, tâm chánh lấy niết bàn, mà Đại Bồ Tát chẳng chứng niết bàn. Tại sao vậy? Bồ Tát suy nghĩ: chớ để thân tôi do nhơn duyên ấy mà thối chuyển Bồ Đề.
    Lại nầy Thiện nam tử! Ví như có người phụng thờ lửa. Họ tôn trọng cung kính gìn giữ ngọn lửa, mà họ chẳng có tâm niệm dùng hai tay nắm bốc lửa. Tại sao vậy? Vì họ tâm niệm rằng chớ để thân tôi vì nhơn duyên ấy mà phải thân đau tâm khổ.
    Nầy Thiện nam tử! Đại Bồ Tát dầu thuận hướng về niết bàn nhẫn đến bồ đề niết bàn, mà Đại Bồ Tát chẳng chứng niết bàn. Tại sao vậy? Đại Bồ Tát suy nghĩ rằng: chớ để thân tôi do nhơn duyên ấy mà thối thất Bồ Đề trí."
    Ngài Tịnh Vô Cấu Bửu Nguyệt Vương Quang Đại Bồ Tát bạch rằng:
    "Bạch Đức Thế Tôn! Như chỗ tôi hiểu pháp nghĩa được Đức Phật nói thì Bồ Tát phải thường ở thế gian."
    Đức Phật phán:
    "Đúng như vậy, Bồ Tát phải thường ở tại thế gian."
    Ngài Tịnh Vô Cấu Bửu Nguyệt Vương Quang Đại Bồ Tát bạch rằng:
    "Bạch Đức Thế Tôn! Bồ Tát ở tại thế gian phải thế nào để khỏi bị thế gian ô nhiễm?"
    Đức Phật dạy:
    "Nầy Thiện nam tử! Nay tôi vì ông mà nói ví dụ:
    Nầy Thiện nam tử! Ví như có người khéo hiểu phương tiện bắt các cầm thú, người ấy dùng sức chú thuật cũng đùa với rắn độc, nắm rắn độc hoặc ngậm hoặc rờ vuốt. Đùa giỡn với rắn độc như vậy mà trọn chẳng bị nhơn duyên ấy làm mất mạng. Tại sao vậy? Vì có sức chú thuật thiện xảo vậy.
    Nầy Thiện nam tử! Đại Bồ Tát ở tại thế gian hành thế gian pháp, vì có sức đại trí phương tiện thiện xảo cùng các thuốc độc phiền não ác đùa giỡn, mà chẳng bị nhơn duyên kia làm thối Bồ Đề. Tại sao vậy? Vì Đại Bồ Tát đã thành tựu sức trí huệ phương tiện thiện xảo vậy."
    Ngài Tịnh Vô Cấu Bửu Nguyệt Vương Quang Đại Bồ Tát bạch rằng:
    "Đức Thế Tôn rất lạ lùng, rất lạ lùng thay! Đấng Thiện Thệ rất ít có, rất khó có!
    Bạch Đức Thế Tôn! Đại Bồ Tát tâm hướng đến niết bàn mà chẳng chứng niết bàn, dầu ở tại thế gian mà chẳng bị thế gian ô nhiễm. Nay tôi quy y chư Bồ Tát.
    Bạch Đức Thế Tôn! Nếu có Thiện nam Thiện nữ được nghe hạnh Bồ Tát như đây mà sanh lòng vui mừng, người ấy đã từng trồng căn lành từ quá khứ. Tại sao vậy? Nếu người nào nghe pháp môn nầy nhẫn đến một thời gian chừng khoảng khảy móng tay mà sanh lòng hi hữu, người ấy đã được chư Phật thọ ký rồi. Tại sao vậy? Vì người ấy nghe pháp môn nầy mà chí tâm lắng nghe kỹ vậy."
    Đức Phật phán:
    "Đúng như vậy, như lời ông nói."
    Lúc nói pháp môn ấy, có năm trăm Tỳ Kheo được tâm vô lậu. Được tâm vô lậu rồi các ngài đứng dậy chỉnh y vai hữu, gối hữu chấm đất chấp tay bạch rằng:
    "Bạch Đức Thế Tôn! Chư Bồ Tát đáng được cung kính, phải nên lễ kính chư Bồ Tát."
    Đức Phật phán rằng:
    "Đúng như vậy. Nầy Thiện nam tử! Chư Đại Bồ Tát quán pháp thuận pháp như vậy thì gọi là Bồ Tát quán pháp thuận pháp."
    Vì hiển thị nghĩa ấy, Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
    "Phải kính đại trí huệ
    Phải kính đại vô úy
    Phải kính người chánh phục
    Phải kính người Phật sanh
    Vì dùng sức phương tiện
    Vì trí huệ thiện xảo
    Vượt quá hàng Thanh Văn
    Bồ Tát có trí lớn
    Biết rõ năm ấm hư
    Vì sanh diệt bất định
    Thấy thế gian lửa cháy
    Nên chẳng chứng niết bàn.
    Lại nầy Thiện nam tử! Thế nào là Đại Bồ Tát rời lìa mạn, đại mạn?
    Nầy Thiện nam tử! Mạn được nói đó là người sanh tâm như vầy: nay tôi có những nhà cửa, dòng họ, hình sắc, sức lực và những thứ vàng bạc châu báu hoặc những tượng binh, mã binh, xa binh, bộ binh vân vân, chẳng kém người khác. Nếu có người sanh tâm kiêu mạn như vậy thì gọi là mạn, vì họ chẳng có lòng kính nể người khác vậy.
    Nầy Thiện nam tử! Thế nào gọi là đại mạn?
    Nếu có người quan niệm rằng: thân thế dòng họ tài sản của tôi nhẫn đến bốn binh chủng của tôi hơn người khác. Do đó mà không có lòng kính nể người khác. Đây gọi là đại mạn.
    Nầy Thiện nam tử! Kiêu mạn và đại mạn ấy, Đại Bồ Tát đều đã rời bỏ. Đây gọi là Bồ Tát rơi lìa mạn đại mạn."
    Vì tuyên bày nghĩa ấy Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
    "Rời mạn lìa đại mạn
    Thường hành tâm từ bi
    Vì dùng tâm nhuần tâm
    ƠŒ đời chẳng phóng dật
    Dầu làm việc khất thực
    Đại sư của Bồ Tát
    Thuyết pháp làm lợi ích
    Cho trời và cho người.
    Lại nầy Thiện nam tử! Thế nào là Bồ Tát hiểu giáo pháp bí mật của Đức Như Lai?
    Nầy Thiện nam tử! Đại Bồ Tát ở trong các kinh có ẩn chứa những nghĩa thâm mật thì khéo biết như thiệt.
    Nầy Thiện nam tử! Những gì là giáo nghĩa thâm mật của Đức Như Lai?
    Nầy Thiện nam tử! Đức Phật thọ ký cho hàng Thanh Văn được vô thượng Bồ Đề. Việc ấy chẳng nên vậy.
    Như Đức Phật bảo A Nan: Lưng ta đau nhức. Việc ấy chẳng nên vậy.
    Như Đức Phật phán với chư Tỳ Kheo: nay ta già suy các ông vì ta mà tìm thị giả. Việc ấy chẳng nên vậy.
    Như Đức Phật bảo Đại Mục Kiền Liên: ông nên đến hỏi y vương Kỳ Bà bịnh của ta phải uống thứ thuốc nào? Việc ấy chẳng nên vậy.
    Như Đức Phật theo đuổi các nhà ngoại đạo nhiều nơi để luôn luận nghĩa tranh thắng cùng họ. Việc ấy chẳng nên vậy.
    Như gai khư đà la đâm chưn ta. Việc ấy chẳng nên vậy.
    Như Đức Phật thường nói Đề Bà Đạt Đa La là kẻ oán cừu đời trước của ta, ông ấy thường theo tìm dịp hại ta mất. Việc ấy chẳng nên vậy.
    Như Đức Phật ngày trước vào thành Xá Vệ trong thôn Xa Lê Gia Bà La Môn khất thực khắp nơi rồi đi ra với cái bát không. Việc ấy chẳng nên vậy.
    Như nàng Chiên Giá ma na Tỳ tôn Đà Lê dùng gáo gỗ độn bụng để vu báng Như Lai. Việc ấy chẳng nên vậy.
    Như ngày trước Đức Phật nhận lời thỉnh an cư ba tháng tại nước Tỳ Lan Đa của Tỳ Lan Nhã Bà La Môn, mà ăn cơm lúa mạch. Việc ấy chẳng nên vậy."
    Ngài Tịnh Vô Cấu Bửu Nguyệt Vương Quang Đại Bồ Tát bạch rằng:
    "Bạch Đức Thế Tôn! Lời nói vừa rồi đó phải nhận lấy thế nào? Cớ chi Đức Thế Tôn thọ ký cho hàng Thanh Văn được vô thượng Bồ Đề?"
    Đức Phật phán dạy:
    "Nầy Thiện nam tử! Ta thọ ký cho hàng Thanh Văn được vô thượng Bồ Đề đó là vì ta thấy họ có Phật tánh vậy."
    Ngài Tịnh Vô Cấu Bửu Nguyệt Vương Quang Đại Bồ Tát bạch rằng:
    "Bạch Đức Thế Tôn! Hàng Thanh Văn ấy dứt hữu lậu rời ba cõi phần thọ sanh đã đoạn, mà vì họ có Phật tánh nên được Đức Như Lai thọ ký vô thượng Bồ Đề, việc ấy như thế nào?"
    Đức Phật phán dạy:
    "Nầy Thiện nam tử! Nay ta vì ông mà nói ví dụ.
    Nầy Thiện nam tử! Vì như Quán đảnh Chuyển Luân Thánh Vương có đủ ngàn Vương Tử, cứ theo Vương Tử nào lớn nhứt sẽ truyền ngôi vua. Nhưng vì Vương Tử ấy căn tánh ngu độn nên đáng lẽ sơ giáo lại trung giáo, đáng lẽ trung giáo lại hậu giáo, tất cả những sự nghề nghiệp chú thuật Vương Tử ấy vì ngu độn nên đáng lẽ sơ học thì trung học, đáng lẽ trung học thì hậu học.
    Nầy Thiện nam tử! Ý của ông nghĩ sao? Vương Tử ấy học như vậy xong há lại chẳng phải là Chánh tử của Luân Vương ư?"
    Ngài Tịnh Vô Cấu Bửu Nguyệt Vương Quang Đại Bồ Tát bạch rằng:
    "Bạch Đức Thế Tôn! Là chơn Vương Tử vậy."
    Đức Phật phán dạy:
    "Nầy Thiện nam tử! Cũng vậy. Có Bồ Tát vì căn tánh chậm lụt nên đáng sơ học lại trung học, đáng trung học lại hậu học, y theo pháp quán năm ấm của chúng sanh dứt diệt phiền não. Diệt phiền não rồi sau mới được vô thượng Bồ Đề.
    Nầy Thiện nam tử! Hàng Thanh Văn ấy do nhơn duyên như vậy mà được vô thượng Bồ Đề, há lại có thể nói rằng hàng Thanh Văn chẳng được thành Chánh Giác ư?"
    Ngài Tịnh Vô Cấu Bửu Nguyệt Vương Quang Đại Bồ Tát bạch rằng:
    "Bạch Đức Thế Tôn! Tôi chẳng bao giờ thấy có ai, là người hay trời, là Ma Vương hay Phạm Vương mà có thể nói hàng Thanh Văn chẳng thành được Chánh Giác. Không bao giờ có người nào nói được. Chỉ trừ hạng nhứt xiển đề."
    Đức Phật phán dạy:
    "Nầy Thiện nam tử! Nay ta lại vì ông mà nói ví dụ.
    Nầy Thiện nam tử! Bồ Tát căn tánh bén nhạy trụ địa thứ mười trừ hai thứ vô ngã mà ngồi đạo tràng. Đó là trừ rồi ngồi, hay là chẳng trừ mà ngồi ư?"
    Ngài Tịnh Vô Cấu Bửu Nguyệt Vương Quang Đại Bồ Tát bạch rằng:
    "Bạch Đức Thế Tôn! Đã trừ rồi ngồi vậy."
    Đức Phật phán dạy:
    "Nầy Thiện nam tử! Bồ Tát lợi căn ấy do nhơn duyên như vậy há lại chẳng thành Chánh Giác ư?"
    Ngài Tịnh Vô Cấu Bửu Nguyệt Vương Quang Đại Bồ Tát bạch rằng:
    "Bạch Đức Thế Tôn! Được thành Chánh Giác vậy."
    Đức Phật phán dạy:
    "Nầy Thiện nam tử! Trường hợp lời nói trên đây cũng như vậy."
    Ngài Tịnh Vô Cấu Bửu Nguyệt Vương Quang Đại Bồ Tát bạch rằng:
    "Bạch Đức Thế Tôn! Cớ chi Đức Thế Tôn ngày trước bảo ông A Nan rằng: lưng ta đau nhức?"
    Đức Phật phán dạy:
    "Nầy Thiện nam tử! Ta quan sát thương xót chúng sanh đời sau mà nói rằng lưng ta đau nhức. Khiến các người bịnh biết rằng thấy Đức Phật là thân Kim cương mà còn có đau lưng huống là chúng ta và những người khác. Vì cớ ấy nên ta mới có lời nói như vậy. Mà các ngu nhơn lại cho là thiệt, là Đức Phật có bịnh đau lưng vân vân. Như vậy là họ tự hại và làm hại người khác.
    Nầy Thiện nam tử! Như ngày trước ta bảo chư Tỳ Kheo rằng nay ta già yếu các ông nên vì ta mà tìm thị giả. Ta nói như vậy cũng là vì thương xót đời sau các Thanh Văn đệ tử già yếu phải cần người chăm sóc, cung cấp để khỏi thối chuyển. Mà những ngu nhơn lại cho rằng thiệt, họ cho rằng Đức Phật già yếu cần thị giả.
    Nầy Thiện nam tử! Ngày trước ta bảo Đại Mục Kiền Liên đến hỏi y vương Kỳ Bà về cách uống thuốc. Ta nói như vậy cũng là vì thương xót đời sau hàng Thanh Văn đệ tử, người có bịnh cần phải dùng thuốc. Họ nhớ rằng Đức Phật là thân Kim cương mà còn phải uống thuốc huống là tôi và các người khác. Mà những ngu nhơn lại cho là thiệt, họ cho rằng thân Đức Phật là thân bịnh hoạn.
    Nầy Thiện nam tử! Lúc Đại Mục Kiền Liên vâng lời ta đến hỏi thuốc nơi Kỳ Bà y vương, Kỳ Bà không mặt mũi nào dám chỉ thuốc cho Như Lai nên chẳng đáp thẳng mà chỉ nói rằng: chỉ nên ăn tô, chỉ nên ăn tô. Đó là Đức Phật Như Lai thị hiện nghiệp báo để cho hàng Thanh Văn đệ tử đời sau nhớ biết mà chẳng thối chuyển.
    Nầy Thiện nam tử! Ngày trước Đức Như Lai đuổi theo các nhà ngoại đạo khắp nơi như Ni Kiền tử vân vân để luận nghĩa tranh thắng. Đó là vì ta quan sát thương xót các chúng sanh đời sau. Khiến chúng sanh ấy nhớ biết rằng Đức Phật Như Lai chánh chơn chánh giác mà còn có oan gia huống là chúng ta và những người khác. Mà các ngu nhơn lại cho là thiệt, họ cho rằng Đức Phật Như Lai thiệt có oan gia.
    Nầy Thiện nam tử! Chuyển Luân Thánh Vương do chút ít phước mà còn không có oan gia, huống là Đức Như Lai đã thành tựu vô lượng vô biên công đức.
    Nầy Thiện nam tử! Ngày trước gai khư đà la đâm chưn Như Lai. Đó là ta vì thương chúng sanh đời sau mà thị hiện nghiệp báo, cho họ nhớ biết rằng Đức Như Lai thành tựu vô lượng vô biên công đức mà còn có nghiệp báo huống là chúng ta và các người khác, do đó mà họ tránh bỏ nghiệp ác. Mà những ngu nhơn lại cho là thiệt, họ cho rằng Đức Như Lai bị gai đâm chưn."
    Ngài Tịnh Vô Cấu Bửu Nguyệt Vương Quang Đại Bồ Tát bạch rằng:
    "Bạch Đức Thế Tôn! Có phải Đề Bà Đạt Đa là oan cừu từ đời trước của Đức Phật, ông ấy tìm dịp để hại Phật?"
    Đức Phật phán dạy:
    "Nầy Thiện nam tử! Nếu không có thiện tri thức Đề Bà Đạt Đa thì trọn chẳng biết được Đức Như Lai có vô lượng vô biên công đức.
    Nầy Thiện nam tử! Đề Bà Đạt Đa là thiện tri thức. Ông ấy tranh thắng với ta mà thị hiện oan gia để hiển bày vô lượng công đức của Như Lai.
    Nầy Thiện nam tử! Ông bạn lành Đề Bà Đạt Đa ở trong cung nội với vua A Xà Thế làm hại Đức Như Lai. Lúc ấy nhà vua cố ý thả voi Hộ Tài để đạp ta. Đức Như Lai thấy voi liền điều phục nó. Vô lượng chúng sanh thấy Đức Như Lai điều phục được voi Hộ Tài đều sanh lòng kính ngưỡng mà phát tâm tin mến quy y Tam Bảo, đó là Phật Bảo, Pháp Bảo và Tăng Bảo. Do cớ sự như vậy nên biết Đề Bà Đạt Đa là thiện tri thức từ lâu theo làm oan gia của Phật. Mà các ngu nhơn lại cho đó là thiệt, họ nói Đề Bà Đạt Đa hại Đức Phật, là oan gia của Đức Phật.
    Nầy Thiện nam tử! Cho đến từ quá khứ trong năm trăm đời sanh chỗ nào, Đề Bà Đạt Đa là thiện tri thức mà thị hiện làm oan gia để hiển bày chư Bồ Tát và Như Lai có vô lượng công đức. Mà các ngu nhơn lại cho là thiệt, họ cho rằng Đề Bà Đạt Đa là kẻ hại Phật, là oan gia của Phật. Do sự nhận định bất thiện ấy, nên các ngu nhơn ấy phải đọa trong tam đồ: địa ngục, ngạ quỷ, và súc sanh, những xứ khổ não. Tại sao vậy? Nầy Thiện nam tử! Đề Bà Đạt Đa là thiện tri thức. Ông ấy đã khéo tu vô lượng công đức thù thắng, khéo tu căn lành, gần gũi chư Phật gieo trồng cội công đức, tâm hướng về đại thừa, thuận về đại thừa, đến bờ đại thừa, đã gần vô thượng Bồ Đề. Vì các ngu nhơn kia hủy báng ông ấy nên đời vị lai họ sanh vào trong các ác đạo địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh."
    Ngài Tịnh Vô Cấu Bửu Nguyệt Vương Đại Bồ Tát bạch rằng:
    "Bạch Đức Thế Tôn! Còn việc Đức Thế Tôn vào khất thực trong thôn Xa lê Gia Bà La Môn tại thành Xá Vệ mang bát không mà ra là thế nào?"
    Đức Phật phán dạy:
    "Nầy Thiện nam tử! Việc ấy cũng là vì thương xót chúng sanh đời sau mà hiện ra như vậy. Để cho người đời sau nhớ biết rằng: Đức Phật đầy đủ vô lượng công đức còn mang bát không mà đi ra, huống là chúng ta và các người khác.
    Nầy Thiện nam tử! Có kẻ bảo đó là ma Ba Tuần khuyên các nhà Bà La Môn trưởng giả cư sĩ đừng cúng dường Đức Như Lai. Lời nói ấy cũng chẳng đúng. Tại sao vậy? Nầy Thiện nam tử! Ma Vương Ba Tuần không có năng lực khuyên cáo trưởng giả đừng dâng cúng Đức Như Lai.
    Nầy Thiện nam tử! Việc ấy chớ nên quan niệm như vậy. Vì Ma Vương không đủ sức ngăn chận sự cúng dường Đức Như Lai. Đó là Đức Như Lai sai khiến Ma Vương đến nơi các trưởng giả vân vân để họ không cúng dường.
    Nầy Thiện nam tử! Đức Như Lai đã diệt hết các chướng ngại, đã thành tựu vô lượng công đức thù thắng, không bao giờ có ai làm chướng ngại được sự cúng dường Đức Như Lai.
    Đức Như Lai không có nghiệp báo thiệt. Chỉ vì muốn cho các chúng sanh đắc đạo thị hiện các sự việc phương tiện thiện xảo như vậy.
    Nầy Thiện nam tử! Đức Như Lai nếu đoạn một bữa ăn, khiến hàng Thanh Văn và Ma Vương Thiên Long bát bộ cùng chư thiên nghĩ rằng chớ để quyến thuộc sanh lòng lo khổ. Vì những sự việc như vậy nên Đức Như Lai ngày đêm thị hiện, khiến họ sanh tâm niệm bất thiện, cho đời sau biết rằng Đức Như Lai đã dứt khỏi tam giới mà còn có sự việc ấy huống là chúng ta và các người khác.
    Lúc ta hiện ra sự việc ấy, có bảy vạn chư thiên sanh lòng tin thanh tịnh đối với Đức Như Lai. Biết lòng tin của tám vạn chư thiên ấy, Đức Như Lai liền vì họ mà thuyết pháp. Họ nghe pháp rồi đều được pháp nhãn thanh tịnh.
    Nầy Thiện nam tử! Vì sự lợi ích như vậy và vì quan sát thương xót các chúng sanh đời sau nên thị hiện các sự việc ấy. Đức Như Lai không có nghiệp báo như vậy."
    Ngài Tịnh Vô Cấu Bửu Nguyệt Vương Quang Đại Bồ Tát bạch rằng:
    "Bạch Đức Thế Tôn! Còn việc nàng Tôn Đà Lê dùng gáo gỗ độn bụng vu báng Đức Như Lai thì thế nào?"
    Đức Phật dạy:
    "Nầy Thiện nam tử! Việc ấy cũng chẳng phải vậy. Đức Như Lai đã thành tựu vô lượng công đức, không có hoạn nạn về nghiệp báo.
    Nầy Thiện nam tử! Thần lực của Đức Như Lai có thể đem những người như nàng Tôn Đà Lê ra ngoài vô lượng hằng hà sa thế giới, mà vẫn bị vu báng, đó là Đức Như Lai dùng sức phương tiện hiển thị nghiệp báo. Đời sau nầy hàng đệ tử của ta, người phước bạc dầu được xuất gia trong pháp của Phật mà bị vu báng hoặc lại thối thất, bởi họ chẳng suy nghĩ lời dạy của Phật mà quan niệm rằng: nay tôi đã bị vu báng, tôi chẳng nên còn ở trong chánh pháp của Phật; vì muốn cho những hàng đệ tử ấy nhớ biết rằng chư Phật Như Lai đầy đủ trọn vẹn tất cả pháp lành đã dứt pháp ác, mà còn có ác đối với bị vu báng như vậy, huống là tôi và những người khác. Vì họ nhớ biết như vậy nên chẳng còn thối thất mà vẫn tu phạm hạnh.
    Nầy Thiện nam tử! Nàng Tôn Đà Lê vân vân sanh ác tâm, do thần lực của Phật, làm cho họ chiêm bao để được khai ngộ: nếu tôi thiệt vu báng Đức Phật, lúc thân tôi chết ắt phải đọa ác đạo.
    Nầy Thiện nam tử! Nếu Đức Như Lai biết là người đó có thể phòng hộ được tất liền phòng hộ họ. Vì thế nên Như Lai thị hiện sự việc như vậy."
    Ngài Tịnh Vô Cấu Bửu Nguyệt Vương Quang Đại Bồ Tát bạch rằng:
    "Bạch Đức Thế Tôn! Còn việc ngày trước Đức Như Lai ở tại nước Tỳ Lan Đà nhận lời thỉnh an cư ba tháng của Tỳ Lan Nhã Bà La Môn mà ăn cơm lúa mạch là thế nào?"
    Đức Phật phán:
    "Nầy Thiện nam tử! Cũng là vì thương chúng sanh đời sau mà ta hiện ra sự việc ấy.
    Nầy Thiện nam tử! Đức Như Lai thiệt biết các Bà La Môn cư sĩ vân vân thỉnh an cư mà chẳng cúng dường nhưng vẫn nhận lời an cư tại xứ ấy.
    Tại sao vậy? Nầy Thiện nam tử! Lại chỗ ta an cư ấy có năm trăm con ngựa, phần lúa mạch của bầy ngựa ấy cung cấp đủ cho chúng tăng trong ba tháng.
    Nầy Thiện nam tử! Bầy ngựa ấy đều là Đại Bồ Tát đã từng trồng cội phước đức, mà vì gặp bạn ác gây tạo nghiệp ác nên phải sanh làm thân súc sanh.
    Nầy Thiện nam tử! Người chăn nuôi bầy ngựa ấy chính là ngài Nhựt Tạng Bồ Tát ấy do nguyện lực mà sanh ở đó. Ngài Nhựt Tạng Bồ Tát ấy khuyến cáo năm trăm con ngựa phát tâm Bồ Đề cho chúng được thoát khỏi ác báo. Cũng vì việc ấy mà ngài nguyện sanh ở đó. Do sức khéo giỏi chăn nuôi của ngài mà năm trăm con ngựa ấy đều nhớ được đời trước phát tâm Bồ Đề giác ngộ bổn tâm.
    Nầy Thiện nam tử! Vì thương bầy ngựa ấy mà Như Lai nhận lời thỉnh an cư ở xứ ấy. Lúa mạch phần ăn của người chăn con ngựa thì cấp cho Như Lai, còn phần lúa mạch của năm trăm con ngựa thì cấp cho chúng Tăng.
    Nầy Thiện nam tử! Người chăn ấy dùng âm thanh của loài ngựa dạy năm trăm con ngựa ấy sám hối, khuyên chúng nó phát tâm. Lại làm cho bầy ngựa sanh lòng kính trọng đối với Tam Bảo.
    Nầy Thiện nam tử! Quá ba tháng, năm trăm con ngựa ấy bỏ thân sanh lên trời Đao Lợi. Đức Như Lai vì họ thuyết pháp cho họ được thọ ký vô thượng Bồ Đề.
    Nầy Thiện nam tử! ƠŒ xứ ấy có bao nhiêu người chăn ngựa, người giữ ngựa, Đức Như Lai thọ ký cho họ sẽ được thành tựu tâm tự điều phục được đạo Duyên giác.
    Nầy Thiện nam tử! Trong thế gian không có món ăn nào mà khi Đức Như Lai ăn lại chẳng thành mùi vị thơm ngon vi diệu.
    Nầy Thiện nam tử! Giả sử vật như đất cục ngói đá vân vân được Như Lai ăn cũng thành món ăn có mùi vị vi diệu cả.
    Nầy Thiện nam tử! Món ăn được Đức Như Lai ăn đều thành vị cả, trong cõi Đại Thiên khắp thế gian không có món ăn của ai mà có thể sánh bằng được.
    Tại sao vậy? Bởi Đức Như Lai đã được tướng hảo đại trượng phu được thượng vị trong các vị, được thượng vị trong các món ăn vậy.
    Nầy Thiện nam tử! Nay ông phải nhận biết sở thực của Đức Như Lai đều là vị vi diệu không món nào sánh bằng.
    Nầy Thiện nam tử! A Nan Tỳ Kheo vì thương mến ta nên nói rằng: Đức Như Lai vốn dòng chuyển Luân Thánh Vương bỏ ngôi xuất gia sao lại phải ăn cơm lúa mạch!
    Biết tâm niệm của A Nan, Đức Như Lai liền trao một hột cơm lúa mạch cho A Nan mà bảo rằng: ông nếm coi đó là mùi vị gì?
    A Nan ăn rồi lấy làm lạ lùng bạch với ta rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Tôi sanh trưởng trong hoàng gia mà chưa boa giờ được ăn món mào có mùi vị ngon thơm như vậy.
    Nầy Thiện nam tử! Do ăn thượng vị ấy mà A Nan thân tâm an ổn bảy ngày chẳng cần ăn.
    Nầy Thiện nam tử! Do những cớ sự ấy nên biết Đức Như Lai không có nghiệp báo.
    Nhưng chư cư sĩ Bà La Môn kia thỉnh chư Tỳ Kheo thanh tịnh có đức qua ở xứ này mà chẳng cúng dường, cũng để thị hiện quả báo.
    Nầy Thiện nam tử! Bà La Môn kia thỉnh Phật và Tăng mà chẳng cúng dường, ông nên xem thần lực của Như Lai, Đức Như Lai khiến Bà La Môn kia chẳng bị đọa vào ác đạo.
    Nầy Thiện nam tử! Trong hàng chư Tăng năm trăm Tỳ Kheo cùng ta an cư lúc ấy, có bốn mươi Tỳ Kheo có nhiều tâm tham, vì họ chẳng quán được hạnh bất định, nếu họ được món ăn ngon vừa ý thì sẽ đều thối đạo. Do họ ăn cơm lúa mạch của ngựa nên họ chẳng sanh lòng dục, quá bảy ngày cả bốn mươi Tỳ Kheo ấy đều được quả A La Hán.
    Nầy Thiện nam tử! Đức Như Lai có trí phương tiện thiện xảo biết rõ tâm tánh của chúng sanh, vì độ chúng sanh mà Như Lai nhận sự thỉnh ấy.
    Nầy Thiện nam tử! Đại Bồ Tát khéo thành tựu những sự thị hiện giáo pháp thậm thâm bí mật như vậy. Nếu biết như vậy thì gọi là khéo hiểu giáo pháp bí mật của Đức Như Lai."
    Vì tuyên bày nghĩa ấy, nên Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
    "Khéo biết pháp môn tiệm
    Và biết pháp môn đốn
    Trong tâm khéo biết rõ
    Chư Bồ Tát thị hiện
    Khéo biết bí mật giáo
    Xa lìa những nghi hoặc
    Không biết lời Phật dạy
    Những giáo pháp bí mật."
    Ngài Tịnh Vô Cấu Bửu Nguyệt Vương Quang Đại Bồ Tát bạch rằng:
    "Bạch Đức Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ Tát chẳng cầu Thanh văn thừa và Duyên giác thừa?"
    Đức Phật phán:
    "Nầy Thiện nam tử! Dầu Đại Bồ Tát có ở địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh chịu khổ rất nặng chẳng thể nói, nhưng tâm các ngài vẫn chẳng cầu Thanh văn thừa và Duyên giác thừa, cũng không có tâm cầu tự giải thoát, chẳng nghĩ thiểu dục, chẳng nghĩ thiểu tác, chẳng làm sự thiểu dục, chẳng làm sự thiểu tác.
    Nầy Thiện nam tử! Với các chúng sanh thiện nghiệp Bồ Tát cùng họ đồng sự, nhưng chính là Bồ Tát khuyên họ làm lành phát tâm vô thượng Bồ Đề vậy.
    Nầy Thiện nam tử! Vì thành tựu pháp như vậy nên Đại Bồ Tát chẳng cầu Thanh văn thừa và Duyên giác thừa."
    Vì tuyên bày nghĩa ấy, Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
    "Thường giáo hóa chúng sanh
    Tâm chẳng biết mệt mỏi
    Với vô thượng Bồ Đề
    Vững chắc chẳng thối chuyển
    Tâm Bồ Tát chẳng động
    Dường như núi Tu Di
    Tu tập tâm từ bi
    Chẳng cầu nhị thừa đạo."
    Ngài Tịnh Vô Cấu Bửu Nguyệt Vương Quang Đại Bồ Tát bạch rằng:
    "Bạch Đức Thế Tôn! Đức Như Lai nói Bồ Tát thành tựu những pháp như vậy nên gọi là hành đại thừa trụ đại thừa. Nhưng Đức Như Lai chẳng nói do nghĩa gì mà đại thừa ấy được tên là đại thừa."
    Đức Phật phán:
    "Nầy Thiện nam tử! Nay ta hỏi tùy ý ông đáp.
    Nầy Thiện nam tử! Chuyển Luân Thánh Vương mang đủ bốn binh chủng đi qua những con đường.
    Con đường được Thánh Vương đi ấy dùng danh từ gì để gọi?"
    Ngài Tịnh Vô Cấu Bửu Nguyệt Vương Quang Đại Bồ Tát bạch rằng:
    "Bạch Đức Thế Tôn! Con đường ấy gọi là Vương đạo, là Đại đạo, là Vô Úy đạo, là Vô Ngại đạo, con đường hơn tất cả đường của các Quốc Vương."
    Đức Phật dạy:
    "Nầy Thiện nam tử! Đạo sở hành của chư Phật Như Lai chánh chơn chánh giác gọi là đại thừa, là thượng thừa, là diệu thừa, là thắng thừa, là vô thượng thừa, là vô thượng thượng thừa, là vô đẳng thừa, là vô đẳng đẳng thừa, là bất ác thừa.
    Nầy Thiện nam tử! Vì nghĩa ấy nên gọi là đại thừa."
    Ngài Tịnh Vô Cấu Bửu Nguyệt Vương Quang Đại Bồ Tát bạch rằng:
    "Bạch Đức Thế Tôn! Đức Thế Tôn nói danh nghĩa đại thừa như vậy thiệt là rất hay."
    Lúc Đức Như Lai nói mười pháp đại thừa ấy, Ma Vương Ba Tuần nghĩ rằng ngày nay sa môn Cù Đàm quá cảnh giới của tôi. Nếu tôi cụ bị bốn binh chủng làm não ông Cù Đàm cho ông chẳng nói pháp môn ấy được. Nghĩ xong, Ma Vương Ba Tuần mang bốn binh chủng đến núi Kỳ Xà Quật nơi thành Vương Xá.
    Lúc ấy, Ngài Tịnh Vô Cấu Bửu Nguyệt Vương Quang Đại Bồ Tát thấy Ma Ba Tuần mang bốn binh chủng đến muốn làm não Đức Phật Như Lai để Đức Phật Như Lai chẳng nói pháp môn ấy được, Bồ Tát liền hiển hiện thần thông khiến Ma Ba Tuần đến ngã tư đường trong thành Vương Xá xướng to rằng:
    "Hỡi nhân dân Vương Xá thành, nên biết rằng ngày hôm nay tại núi Kỳ Xà Quật, Sa Môn Cù Đàm vì tứ chúng thuyết pháp, sơ trung và hậu đều lành, văn nghĩa sâu xa đầy đủ phạm hạnh thanh tịnh. Mọi người nên đến núi Kỳ Xà Quật nghe Sa Môn Cù Đàm thuyết pháp. Mọi người nghe pháp sẽ được đại an lạc đại lợi ích!"
    Được sự khuyến cáo của Ma Ba Tuần, nhơn dân trong thành Vương Xá: Bà La Môn, Sát lợi, trưởng giả, Cư Sĩ vân vân mang theo hoa hương phan lọng ra khỏi thành Vương Xá đến núi Kỳ Xà Quật chỗ Đức Thế Tôn ngự, đảnh lễ chưn Phật tôn trọng tán thán rồi ngồi một phía.
    Ma Vương Ba Tuần cũng cùng bốn binh chủng đến chỗ Đức Như Lai hóa ra hoa trời mạn đà la rãi cúng Đức Như Lai rồi ngồi một phía.
    Biết ma ngồi xong, ngài Tịnh Vô Cấu Bửu Nguyệt Vương Quang Đại Bồ Tát nói với Ma Vương Ba Tuần rằng:
    "Nầy Ba Tuần! Duyên cớ gì ông mang binh ma đến muốn làm não và ngăn trở Đức Như Lai nói pháp môn ấy?
    Nay ông phải đối với Đức Như Lai sanh lòng hổ thẹn lòng sám hối. Bằng không ông sẽ tự hại mãi mãi và mắc khổ báo."
    Nghe lời Bồ Tát, Ma Vương Ba Tuần chấp tay lễ chưn Đức Phật, sanh lòng hổ thẹn, lòng sám hối mà bạch rằng:
    "Ngày hôm nay tôi rất sợ Đức Như Lai. Rất lạ lùng thay Đức Như Lai. Xin Đức Thiện Thệ cho tôi sám hối. Tôi ngu si, không có trí huệ, không có thiện xảo, chẳng tự tiếc thân mà sanh ác tâm đối với Đức Như Lai, lại muốn pháp môn ấy dứt tuyệt.
    Lành thay Đức Thế Tôn! Xin lại thọ tôi sám hối."
    Đức Phật phán:
    "Lành thay, lành thay! nuôi lớn thiện căn.
    Nầy Ba Tuần! Trong pháp của Phật, nếu có Thiện nam Thiện nữ hay khởi tâm sám hối để cầu thanh tịnh. Lành thay cho Ba Tuần."
    Bấy giờ Ma Vương Ba Tuần đến đứng trước Đức Phật bạch rằng:
    "Bạch Đức Thế Tôn! Phải chăng các Kinh của Phật đều dứt ác ngữ và bất thiện ngữ?"
    Đức Phật phán:
    "Đúng như vậy."
    Ma Vương Ba Tuần bạch rằng:
    "Sao Đức Như Lai là pháp Vương pháp Chúa được pháp tự tại mà gọi tôi là Ba Tuần, lại dùng tên ấy để gọi tôi?"
    Đức Phật phán:
    "Nầy Ba Tuần! Nay ta vì ông mà nói ví dụ.
    Nầy Thiện nam tử! Ví như Trưởng giả Cư Sĩ giàu có vô lượng chỉ có một con trai rất thương yêu chẳng rời trước mắt đem sanh mạng mình buộc chặt với con. Nhưng đứa con trai ấy tánh tình ngang ngược rất hung dữ. Vì thương yêu con nên Trưởng Giả Cư Sĩ dùng gậy đánh nó, muốn cho nó bỏ tánh xấu.
    Nầy Thiện nam tử! Trưởng giả Cư Sĩ ấy đánh đập đứa con như vậy mà có ác tâm chăng?"
    Ma Vương Ba Tuần bạch rằng:
    "Bạch Đức Thế Tôn! Không có ác tâm. Vì thương yêu muốn cho con nên người mà làm như vậy."
    Đức Phật dạy:
    "Nầy Thiện nam tử! Phải biết rằng Đức Như Lai chánh chơn chánh giác biết tâm tánh căn dục của chúng sanh: kẻ nên dùng ác ngôn được độ thì Như Lai dùng ác ngôn, kẻ nên dùng nín lặng không nói mà được độ thì Như Lai dùng nín lặng, kẻ nên đuổi xua mà được độ thì Như Lai dùng đuổi xua, kẻ nên dùng thuyết pháp được độ thì Như Lai vì họ mà thuyết pháp, kẻ nên dùng nhiếp thọ được độ thì Như Lai nhiếp thọ họ, kẻ nên thấy sắc thân Phật mà được độ thì Như Lai thị hiện sắc thân cho họ thấy, kẻ nên nghe tiếng hoặc nghe mùi vị chạm xúc mà được độ thì Như Lai hiện thuyết pháp nhẫn đến hiện mùi vị và chạm xúc để độ họ."
    Ma Vương Ba Tuần vui mừng hớn hở lại chấp tay đảnh lễ chưn Đức Phật mà bạch rằng:
    "Bạch Đức Thế Tôn! Phàm chỗ nào xứ nào có nói pháp môn nầy hoặc thôn xóm thành ấp vương đô, tôi vì nghe pháp nên đến nơi ấy hộ trì pháp môn nầy, cũng thủ hộ pháp khí thọ trì pháp môn nầy.
    Bạch Đức Thế Tôn! Lúc tôi đến nơi ấy tất cả có các tướng dạng, các tướng tịch định rời lìa chướng thùy miên, tôi lại làm cho những pháp khí thượng thắng ở các nơi khác đến hỏi pháp, hoặc đọc tụng hoặc thọ trì, tất cả đều được thân tâm an lạc chẳng sanh lòng kiêu mạn. Tùy người nói pháp nầy: hoặc nói rộng, hoặc nói lược, đều khiến sanh lòng hoan hỷ đối với Đức Như Lai và Đức Như Lai cũng sanh lòng hoan hỷ đối với họ.
    Các chúng sanh ấy, khi lòng họ đã hoan hỷ thì thiện căn thêm lớn, pháp ác tiêu diệt."
    Lúc ấy trong đại chúng có các nhà ngoại đạo Ni Kiền Tử vân vân, nghe Ma Vương Ba Tuần đối trước Đức Phật sám hối phát nguyện như vậy, lòng họ rất vui mừng hớn hở vô lượng được vô sanh nhẫn.
    Ngài A Nan bạch rằng:
    "Bạch Đức Thế Tôn! Do nhơn duyên gì lúc nói pháp nầy chư ngoại đạo ấy được vô sanh nhẫn?"
    Đức Phật dạy:
    "Nầy A Nan! Quả vô lượng kiếp về trước, tại thành Vương Xá núi Kỳ Xà Quật nầy có Đức Phật hiệu là Thượng Lực Túc Như Lai chánh chơn chánh giác. Đức Phật ấy thuyết pháp tại nơi đây.
    Đức Phật ấy thuyết pháp xong, có chư ngoại đạo đến muốn làm não Như Lai, họ lại muốn làm trở ngại Đức Phật nói pháp môn nầy. Nhưng khi nghe pháp chư ngoại đạo ấy sanh lòng vui mừng ca ngợi Đức Phật ấy và sanh lòng kính ngưỡng. Do nhơn duyên ấy nên trong sáu mươi kiếp họ chẳng bị đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh mà chỉ thọ sanh ở trong cõi người cõi trời. Sanh ở chỗ nào họ vẫn nhớ nghĩ Đức Phật Thượng Lực Túc ấy. Dầu họ nhớ Phật mà không gặp thiện hữu.
    Nầy A Nan! Chư ngoại đạo thuở xưa ấy là các nhà ngoại đạo Ni Kiền Tử vân vân trong đại chúng đây vậy.
    Các nhà ngoại đạo thuở xưa có ác ý muốn trở ngại pháp môn nầy và làm não Đức Phật Thượng Lực Túc. Nhưng sau khi nghe pháp sanh lòng vui mừng kính ngưỡng niệm Phật, nay đáng được ta thọ ký vô thượng Bồ Đề, huống là họ lại được vô sanh nhẫn. Lúc Đức Thế Tôn nói pháp môn trên đây, có một muôn hai ngàn chúng sanh xa trần lìa cấu được pháp nhãn thanh tịnh, hai muôn chúng sanh phát tâm vô thượng Bồ Đề."
    Tôn Giả A Nan bạch rằng:
    "Bạch Đức Thế Tôn! Nếu có Thiện nam Thiện nữ đối với pháp môn nầy sanh một niệm kính tin thì được vô lượng công đức, huống là người đọc tụng, thọ trì, ủng hộ, rộng nói cho người khác."
    Đức Phật dạy:
    "Nầy A Nan! Nếu có Thiện nam Thiện nữ khuyên vô lượng chúng sanh phát tâm vô thượng Bồ Đề. Lại có Thiện nam Thiện nữ, nơi pháp môn nầy, sanh một niệm kính tin đọc tụng vì người mà rộng nói được phước nhiều hơn người trên.
    Tại sao vậy?
    Nầy A Nan! Nếu có Thiện nam tử, Thiện nữ nhơn nghe pháp môn nầy và thấy Pháp Sư thọ trì pháp môn nầy mà sanh ác ý thì mắc tội vô lượng hơn tội trước."
    Ngài Tịnh Vô Cấu Bửu Nguyệt Vương Quang Đại Bồ Tát bạch rằng:
    "Bạch Đức Thế Tôn! Nếu có nam tử nữ nhơn hủy báng kinh nầy thì mắc tội thế nào mà Đức Như Lai nói mắc tội hơn trước?"
    Đức Phật dạy:
    "Nầy Thiện nam tử! Nếu có nam tử nữ nhơn trong một thời gian móc mắt của tất cả chúng sanh, nếu lại có nam tử nữ nhơn sanh một niệm ác ý đối với pháp môn nầy và người thọ trì thì mắc tội hơn người trên. Tại sao vậy? Vì pháp môn nầy có tên là Quang Minh, hay ban bố con mắt trí huệ cho tất cả chúng sanh."
    Ngài A Nan bạch rằng:
    "Bạch Đức Thế Tôn! Chẳng nên ở trước nam tử nữ nhơn bất tín mà nói pháp môn nầy. Tại sao vậy? Vì cần phải thủ hộ chúng sanh vậy.
    Bạch Đức Thế Tôn! Tôi từng thấy người tạo nghiệp duyên hủy báng chánh pháp phải đọa vào địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh."
    Đức Phật phán:
    "Nầy A Nan! Nên nói pháp môn nầy. Tại sao vậy? Vì để làm nhơn cho họ, khiến họ tu hành được vô thượng Bồ Đề."
    Tôn giả A Nan bạch rằng:
    "Bạch Đức Thế Tôn! Pháp môn nầy nên đặt tên là gì và phụng trì thế nào?"
    Đức Phật phán:
    "Nầy A Nan! Do vì nói mười pháp nên gọi pháp môn nầy là Thập Pháp Môn, phải thọ trì như vậy.
    Lại cũng gọi là Tịnh Vô Cấu Bửu Nguyệt Vương Quang Bồ Tát Sở Vấn, phải thọ trì như vậy."
    Lúc Đức Phật nói pháp môn nầy rồi, Tôn giả A Nan, Ngài Tịnh Vô Cấu Bửu Nguyệt Vương Quang Đại Bồ Tát và chư Đại Bồ Tát, chư Thanh văn cùng Thiên Long bát bộ, tất cả chúng hội nghe lời Phật dạy đều rất vui mừng đảnh thọ phụng hành.

    KINH ĐẠI BẢO TÍCH - PHÁP HỘI ĐẠI THỪA PHẬT PHÁP

Các tin khác



«Quay lại

↑ Top


Video phật giáo

Thư viện hình ảnh

bia
qc4
qc3
qc2