Phật Nói Kinh Kiến Chánh
LỜI NÓI ĐẦU
Đạo lý luân-hồi đã làm cho các học giả trong đạo cũng như ngoài
đạo, thắc mắc nan giải trong lúc đề cập đến nó. Nhưng vì là đạo lý căn
bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể
gặp nhiều chướng ngại khó hiểu đối với các vấn đề khác như, vô minh duyên
khởi, nghiệp cảm duyên khởi, cho đến A-Lại-gia duyên khởi mà, trong Phật-giáo
thường xem là hệ-trọng đặc biệt… Và chúng ta có thể nói rằng, người không
nhận sự thật chúng sanh luân-hồi, là người sống theo vật chất khoái lạc chủ
nghĩa hay ngẫu nhiên chủ nghĩa vậy.
Nhưng ngẫu nhiên!
Nhân loại có phải sanh trong ngẫu nhiên, sống trong ngẫu nhiên và
chết trong ngẫu nhiên không? Không lẽ! Mọi loài đều ngẫu nhiên cả, thì đâu là
ý nghĩa cuộc đời và đâu là chơn-giá-trị của hành vi sáng tác, ý chí tự do
của con người? Huống chi trong đời sống hiện tại nầy, chúng ta có thể tạo
những điều lành tốt để ngày mai hưởng quả sung-sướng, hoặc gây sự xấu xa,
để nắn thành một ngày mai đen tối, hung ác. Nếu chúng ta không hiểu rõ nhân nào
quả nấy, chẳng có sự ngẫu nhiên nào ngăn đón hay hủy diệt cái định luật nhân
quả kia được, ắt chúng ta không bao giờ suy nghĩ làm điều như thế. Vậy cho
biết không có ngẫu nhiên nhưng có nhân quả hẳn hòi. Và nhân quả ấy chuyền
nối không dứt, tức là luân-hồi vậy. Phải, chúng sanh hẳn sống trong vòng luân-hồi.
Vì vậy đạo lý luân-hồi đã được Phật giảng dạy trong nhiều
Kinh Luận. Kinh Kiến-Chánh sau đây là một. Nội dung Kinh nầy, Phật dùng nhiều
bằng chứng ví dụ để chứng minh một phần đạo lý ấy.
Nay nhân dịp Khánh-thành nhà in LIÊN-HOA, gọi là để hồi hướng công
đức của quí Vị đã có công đối với nhà in. Tôi xin lược dịch ra đây, để
giúp quí đồng đạo nghiên cứu, hầu mong am tường thêm một đạo lý rất quan
hệ đối với sự tu hành của người Phật-tử.
Dịch-giả:
TRÍ ĐỨC -
Phật Lịch 2516
PHẬT NÓI KINH KIẾN-CHÁNH
Tôi nghe như thế nầy: Một hôm Phật ở tại Tinh-Xá Kỳ-Hoàn nơi
thành La-Duyệt-Kỳ. Trong lúc gần ngọ, Ngài cùng năm trăm Vị Tỷ-Khưu, một ngàn
Vị Bồ-Tát và Ưu-Bà-Tắc, bưng đồ cúng dường đi ra ngoài thành La-Duyệt-Kỳ,
bỗng gặp một cây đại thọ tên là Cam-Hương, cành lá sum-sê, cây to gốc lớn,
hoa trái tươi tốt đỏ hồng, chứa chất một mùi vị thơm ngọt. Dưới gốc cây
bằng phẳng. Phật muốn dừng lại đây lót đá mà ngồi. Hàng đệ-tử tùy tùng vâng
theo ý Phật, sửa chỗ cho Phật ngồi, rồi ai nấy cũng đều ngồi quanh Ngài.
Trong đám đệ-tử, có một Tỷ-Khưu tên là Kiến-Chánh, người
mới nhập đạo tu hành, nên trong tâm có chỗ nghi hoặc: "Phật thường nói có
đời sau, nhưng từ loài vật cho đến loài người, khi chết rồi chưa từng ai
trở lại báo cho biết việc ấy như thế nào cả?" Ông liền đem điều ấy
hỏi Phật, Phật nhân đấy bảo cho các đệ-tử rõ, bằng những điều chứng minh,
thí dụ như sau:
-- Gốc đại thọ nầy, vốn từ một hột giống và nhờ các trợ
duyên: đất, nước, gió, lửa mà nó được to lớn, tàn cây có thể che một số
người như thế nầy. Truy nguyên thời kỳ hột giống, thì không thấy có nhánh, lá,
hoa, trái gì cả. Nhưng gặp đủ nhân duyên tứ-đại, nó nứt mầm, nẩy nhánh,
sanh hoa, kết trái dần dần thành một cây to, tàn che một khoảnh đất rộng. Ban
đầu nó chỉ gọi là hột, hột sinh mầm, mầm sinh nhánh, nhánh sinh lá, lá sinh hoa,
hoa sinh trái, trải qua nhiều giai đoạn, thay đổi triển chuyển mới thành cây đại
thọ, đối với hột giống không phải một mà chẳng phải khác, có danh nhưng
chẳng phải thường danh. Nó đã trở thành cây đại thọ. Có thể nhóm tất cả
hoa, trái, nhánh, lá, cọng, gốc kia lại, làm hột giống khi xưa được không?
-- Không thể được – lời các đệ-tử đáp – chúng đã biến
chuyển thì không thể trở lại được nữa. Một ngày một mục nát, hột giống
trở thành mầm, nhánh vân vân. Cứ vậy càng sanh càng đổi, tuy không bị tiêu
mất, nhưng cũng không thể trở lại hột giống như xưa.
-- Sanh tử cũng như thế. Thần thức là pháp nguyên khởi, pháp ấy là
si (vô-minh). Do vô-minh sanh tham ái. Vô-minh in như hột giống. Hột giống tuy nhỏ mà
trưởng thành cây đại thọ, vô-minh tuy ẩn vi mà gây thành nhiều hiện tượng nhân
duyên sai khác. Các hiện tượng nhân duyên đều do thức tâm xuất hiện. Từ vô-minh
sanh ra hành, hành sanh thức, thức sanh danh sắc, danh sắc sanh lục nhập, lục nhập
sanh xúc, xúc sanh thọ, thọ sanh ái, ái sanh thủ, thủ sanh hữu, hữu sanh sanh, sanh
sanh lão tử, hợp lại là mười hai nhân duyên, làm bản thể cho thân nầy. Đã có
thân thì có ngày già, chết. Khi ấy thần-thức tùy theo hạnh nghiệp dắc dẫn, mà
sanh thành một xác thân khác, cũng có Cha mẹ, cũng thọ hình thể, cũng sanh lục tình,
cũng khởi tập nhiễm, cũng chịu khổ vui, cũng theo phong tục, nhưng không thứ nào
trở lui như cũ. Đã không thể trở lại kiến thức như cũ, thì chẳng làm sao
biết được quá khứ. Người ta chỉ một mặt theo kiến thức mới, bảo là thực
có, là thường còn, rồi cố chấp theo những điều tri kiến đó, nên không biết
rằng: đời trước và đời sau do thần thức chuyển di theo hạnh nghiệp mà phát
hiện ra vậy.
Thần thức đã chuyển di, lại nhờ có cha mẹ làm trợ duyên sanh
ra hình thể mới, bị khuôn khổ theo lục tình, tập nhiễm, khổ vui, phong tục, không
thể trở lại đời cũ, cũng không thể trở lại thân hình cũ, tập quán cũ,
kiến thức cũ, như cây đại thọ, không thể trở lui hột giống của ngày trước.
Sau khi nghe Phật dạy, Tỷ-Khưu Kiến-Chánh đứng dậy, quỳ thẳng
bạch Phật: "nghi ý của đệ-tử vẫn chưa trừ giải. Giờ đây chính là lúc
đệ-tử tỏ bày chỗ ngu si ngưỡng mong Thế-Tôn thương xót chỉ dạy cho. Đệ-tử
từ khi nhỏ đến giờ, gặp người chết không phải là ít: hoặc cha mẹ, anh em,
vợ chồng, nội ngoại, hoặc bằng hữu đang thương yêu nhau, hoặc kẻ oán thù đang
giận ghét nhau, mà sau khi chết, thần thức họ vẫn không trở lại gặp mặt,
trả lời cho biết ai sướng ai khổ thế nào cả. Tại sao vậy? Thần thức bị điều
gì làm cách ngại, mà họ không trở lại diện báo cho người sống biết? Mong đức
Thế-Tôn giải bày phân biệt để chúng đệ-tử, đoạn trừ nghi kiết, sớm thấy
lẽ thật."
-- Nầy Tỷ-Khưu! Thần thức kia không hình trạng, khi chuyển di thì tùy
theo hạnh nghiệp mà phát hiện. Nếu người ở đời làm phước, thần thức phước
đức chuyển sang đời khác, cũng còn không thể trở lại diện báo cho biết được,
huống chi là kẻ hung ác. Vì sao? Vì như nhà kỹ-sư nấu đá cho chảy để tìm
thiếc, đã thành thiếc rồi lại đúc làm các khí cụ, những khí cụ ấy, có
thể khiến nó trở lại đá được không?
Thần thức chuyển đi, ở tại thân trung-ấm, ví như đá đã lọc thành
thiếc; từ trung-ấm thay đổi, thọ sanh thân khác, như thiếc đã đúc thành khí
cụ. Hình thể đã thay đổi tiêu ma, không trở lại thân cũ được.
Những ai tu hành năm điều thiện (năm giới) họ sẽ được bẩm
thọ thân người, họ sẽ có cha mẹ, và bị sáu thứ ràng buộc: 1) Ở tại
trung-ấm, không thể trở lại kiếp xưa. 2) Bị bó buộc trong bào thai. 3) Khi sơ
sanh bị ép bức đau đớn quên hết dĩ vãng. 4) Rớt xuống đất, các kiến thức
trước đều mất, sanh ra kiến thức mới. 5) Sanh ra rồi liền tham trước vật
dục, vì tham trước nên kiến thức cũ bị gián đoạn. 6) Lần lần khôn lớn,
tập theo kiến thức mới, chứ không nhớ lại kiến thức xưa.
-- Các đệ-tử: Ví như người khách buôn, đi khắp bốn phương, gặp
đủ điều vui khổ. Khi nhớ nghĩ những điều ở một quận ấp về phương đông,
thì họ không còn nhớ gì về ba phương kia nữa. Trong đường sanh tử cũng vậy.
Trong đời nầy tạo tác hạnh nghiệp rồi sanh qua đời khác. Khi đã thọ thân khác,
liền sanh kiến thức mới, cho nên kiến thức cũ không phát hiện ra.
Bởi sáu việc ấy chằng trói ngăn ngại, nên không biết lại đời
cũ và báo tin cho ai.
--
Hoặc như người thợ gốm, nung đất làm đồ, do sức lửa đốt, miếng đất trở thành
tấm ngói; ta có thể khiến tấm ngói ấy trở lại cục đất được không?
-- Thưa, không thể được.
-- Hoặc như một cây đại thọ bị người ta đốn xuống, cưa xẻ, làm
thành hàng trăm thứ đồ dùng. Nếu có người muốn nhóm góp những đồ vụn vặt và
các tấm gỗ đã bị cưa, làm lại cây đại thọ như trước được chăng?
-- Thưa không được.
-- Hoặc như người thợ nấu cát thành ra sa sắc hồng, rồi lại thành
sắc trắng mà hóa ra như nước. Ta có thể khiến sắc hồng ấy trở lại cát được
không?
-- Thưa không được.
-- Sanh tử cũng như thế, người chưa có đạo ý, chưa có đạo nhãn, khi
thân chết, thần thức biến hóa theo hạnh nghiệp, thọ sanh thân khác, trong những đời
khác, họ bị bưng bít trong thai bào, trong kiến thức, trong tập tánh mới rồi, thì
họ không thể nào biết lại đời trước được.
Hoặc như nước đựng trong bình tròn thời nước thành tròn, đổ sang
đồ vuông thời nước lại thành vuông. Tùy theo đồ đựng, mà nước phải thay hình
đổi dạng theo tướng trạng lớn nhỏ, tròn vuông. Sanh tử cũng như thế. Thức tâm
vốn không có hình thể nhứt định, chỉ tùy theo hành vi thiện ác mà lãnh thọ báo
thân. Có trắng, đen, dài, ngắn, khổ, vui, lành, dữ, đều là sự biến đổi hiện hình,
theo hạnh nghiệp cả. Như tâm thức của ta khi ở đời đã gây điều phi pháp, nên
bị đọa làm bàng sanh, mất tự do trong khổ sở, làm sao biết lại đời trước mà báo
tin cho ai hay.
-- Hoặc như con sùng, sinh ở trong đất, không kêu, không có cánh, nhưng
đúng thời tiết nó hóa thành con ve, ở trên cây kêu suốt ngày, không ngớt. Ta có
thể bảo con ve ấy trở lại với thân hình con sùng đặng báo tin cho các con khác ở
trong đất biết được không?
-- Thưa không được. Con sùng đã biến đổi, rời âm để sống trong dương
khí, thân hình thay đổi dần cho đến ngày chết đi, hoặc bị chim chóc bắt ăn thịt,
chứ không thể trở lại thân sùng được.
-- Sanh tử cũng vậy. Thân nầy chết rồi, thần thức di chuyển, thọ
sanh thân mới, bị ngũ ấm ngăn che, nào kiến thức, nào tập tánh đều đổi mới
trong một hoàn cảnh khác, cho đến ngày tiêu mòn già chết, chứ không thể trở lại
thân hình cũ với kiến thức cũ, báo tin cho ta biết.
-- Hoặc như miếng thịt sống, để lâu ngày hôi hám, hóa sanh trùng giòi.
Muốn cho nó trở lại thành miếng thịt tươi được không?
-- Thưa không được.
-- Sanh tử cũng vậy. Người thế-gian, tâm nghĩ ác, miệng nói ác, thân làm
ác, khi họ chết, thần thức chuyển di, đọa làm thân địa ngục, bàng sanh, ở trong
cảnh giới mới lạ, sự thấy biết khác với ngày trước, lại bị lưới tội buộc
ràng, không biết được ngày xưa, nên cũng không trở lại báo tin cho ta hay được.
-- Hoặc như đêm tối không trăng, mọi vật ở trong hắc ám. Giá có người
trong trăm ngàn vạn người xem mọi vật đêm tối ấy, họ có thể biện biệt được
màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng không?
-- Dù ức triệu người xem trong đêm tối, cũng chẳng thấy được gì,
huống chi là biện biệt năm màu sắc.
-- Nếu có người cầm đuốc soi sáng, bảo cho họ xem, họ có thể thấy
được không?
-- Có thể thấy được.
-- Nếu có người ngu không cầm đuốc, đi vào chỗ tối. Càng đi càng xa,
càng tối, khi ấy họ muốn thấy năm sắc được không?
-- Người ngu đã xây lưng với ánh sáng mà đi vào chỗ tối, họ đi xa
không bao giờ thấy màu sắc được cả.
-- Các đệ-tử! Chúng sanh ở trong đường sanh tử tối tăm cũng như
thế. Từ người cho đến loài vật, hễ đã mang thân hình, ngu si mờ ám, không có đạo
hạnh, không hiểu được nguồn gốc thân tâm, chưa có tuệ nhãn mà vội mong biết đến
thần thức qua lại thọ sanh trong đường sanh tử, lui về báo tin, chẳng khác nào ở
trong đêm tối muốn thấy năm sắc. Trái lại, nếu biết học kinh trì giới, tu hành
ba mươi bảy món trợ đạo Bồ-đề, giữ gìn tâm ý thanh-tịnh, là họ như người
cầm đuốc sáng thấy rõ năm sắc. Người nương theo giáo pháp đức Phật, có thể
biết đường sanh tử và cảnh giới thiện ác mà thần thức đã qua lại. Ngoài ra
những người không thấu rõ thân tâm, ngược bỏ kinh giới, theo giòng trần-tục, tự
ý buông lung, đoạn diệt thật pháp, lòng không tin tưởng, thật hành Phật-pháp, kẻ
ấy như người vất đuốc mà đi vào chỗ tối, càng đi càng mù mờ không trông thấy
gì cả.
-- Các đệ-tử! Các người chớ thuận theo tâm ý ngu si, kiết phược mà
nghi ngờ đạo lý chơn chánh thanh-tịnh. Nếu thuận theo tâm ý ngu si, các người khó
tránh khỏi cảnh giới tối tăm, đọa đầy thống khổ. Ta đã có ý dẫn dụ giải bày
rành rẽ, vậy các ngươi hãy siêng năng phụng hành, đừng bao giờ quên.
-- Các đệ-tử! Người đời chỉ dùng mắt thịt mà thấy những việc
trong hiện tại, nhưng không thể thấy trước đây mình từ đâu đến, mà sau khi già
chết, bước sang đời sau, thọ một thân hình khác, cũng không biết lại những việc
ngày nay. Vì sao? Vì mỗi lần sống chết, thần thức chuyển dịch theo mười hai nhân-duyên,
mà trong mười hai nhân-duyên, ngu si là chủ yếu mà tối tăm, nên một lần thay đổi,
khó biết lại việc cũ. Như đem tấm vải trắng nhuộm thành các màu xanh, vàng, đỏ,
tím, tấm vải đã bị nhuộm không thể trở lại như cũ được. Sanh tử chuyển
dịch cũng như thế. Thức tâm không có tánh-thể thường nhứt, nó bị nhuộm theo
hạnh nghiệp mà thay đổi mãi. Vả lại, tâm ý của chúng sanh thường tưởng niệm
mọi pháp, trong một đời người, lòng nghĩ muốn về những điều lành dữ báo ứng
rất nhiều, hễ các niệm mới sanh thì niệm cũ diệt, mà trong đường sanh tử chỉ
ngu si là thường hơn cả. Ai muốn hiểu nguồn gốc sanh tử qua lại, hãy gắng tu
luyện thân tâm, thâm nhập thanh-tịnh, suy nghĩ nguồn gốc mọi pháp, thì có thể khai
ngộ như thức giấc ngủ.
-- Các đệ-tử! Thần thức bị điều si ám trong việc thiện ác, nên
hễ chết rồi lại sanh với những thân hình sai khác. Không hạnh nghiệp thiện ác là
không thọ thân, như lửa gặp củi thì còn, củi cháy hết thì không, ý thức không hành
vi thiện ác thời cũng không còn có hình thức gì vậy.
Hoặc như gương mờ không thể soi thấy gì được. Bức gương thức tâm
bị hỗn trược ngăn che, chuyển di sanh tử, đầy dẫy thảm khốc sợ hãi, và bị
dắc dẫn theo sự họa phúc tai ương, cũng vậy, chẳng soi thấy việc trong đời cũ.
Như ao nước đục, dẫu có cá trạnh trong đó, vẫn không làm sao trông thấy. Ở trong
sanh tử hỗn loạn, bị mọi điều ưu tư bưng bít, nên hễ một lần chuyển sang
kiếp khác, là quên mất việc đời cũ. Như người nhắm mắt đi trong đêm tối, hoàn
toàn chẳng trông thấy gì. Người đi trong đêm tối sanh tử, trôi theo giòng họa phúc,
phải cam chịu điều mừng vui, khổ não, không thể biết lại việc cũ trong kiếp trước.
-- Các đệ-tử! Ta lấy tuệ-nhãn thanh tịnh soi thấy một cách rõ-ràng,
hết thảy chúng sanh qua lại sanh tử trong vòng ba cõi, khác nào nhìn sợi chỉ trong
hột ngọc thủy-tinh, lưu ly. Xanh, vàng, đều trông thấy rõ. Và như nước trong, có
thể nhìn thấu đáy, tất nhiên thấy rõ các loài thủy tộc trong ấy. Phật thấy chúng
sanh sống chết trong năm đường, như người đứng bên chiếc cầu lớn, thấy rõ
tất cả hành khách qua lại trên cầu. Hoặc như đứng trên núi cao, nhìn thấy cả
bốn bề xa gần, Phật ý cao viễn, Ngài thấy mọi loài sanh tử cũng vậy.
Các ngươi nếu theo lời chỉ dạy của ta, thì biết rõ tử sanh trong
muôn ngàn kiếp. Thật hành ba mươi bảy pháp trọng yếu là 4 món niệm xứ, 4 món chánh
cần, 4 món thần túc, 5 căn, 5 lực, 7 món giác ý, 8 món chánh đạo để trừ bỏ sự
nhơ xấu nơi tự tâm, diệt trừ ba độc tham, sân, si, cắt dứt mối nghi ngờ, khai hóa
trí-thức thanh tịnh, như chư Phật, là có thể biết được việc quá khứ vị lai.
-- Các đệ-tử! Người đời làm những điều thiện ác, chết rồi đều
có sự báo đáp lại cả. Nhưng không ai biết được là vì chưa có ba thứ tịnh nhãn.
Bị ngăn ngại theo lục căn, nhìn với con mắt thịt, cứ làm theo những việc xấu xa
ô trược, đắm đuối trong chỗ ngu si, chuyển hóa theo giòng sanh tử, bị xác thân chướng
ngại, nên rời việc cũ say việc mới, không thể biết có sự báo đáp tùy theo hạnh
nghiệp ấy. Chứ ở đời có sự thọ phước, thọ ương, hoặc tương lân, tương ố
lẫn nhau, đó chính là sự thật, chứng nghiệm việc báo tin của hạnh nghiệp quá
khứ vậy.
Người đời bị trói buộc trong sự nghi ngờ, sanh ra từ chỗ ngu si,
không chút hành vi thanh-tịnh, mà muốn biết việc đời trước cùng những hiệu quả
báo ứng, họ khác nào kẻ không tay muốn viết, không mắt muốn trông. Vì cớ đó
Phật ra đời, giảng bày kinh đạo, mở mang tâm ý mọi người. Ai là kẻ muốn biết
rõ và cải hoán nhân quả hưởng thọ của mình trong đường sanh tử, hãy tùy theo
Phật-giáo, thật hành đạo pháp, trau dồi trí tuệ, điều chính tâm ý, luyện tập
thiền quán, thì đều có hiệu quả được cả.
-- Các đệ-tử! Thần thức có danh không hình, tùy hành vi thiện ác và
bốn món đại làm thể chất. Lúc mới sanh thân nhỏ, sáu căn chưa đủ, kiến thức
hẹp hòi, hiểu biết cạn cợt, đến khi khôn lớn, đủ cả sáu căn, thức tâm huân
tập thêm những điều ái dục, càng ngày càng nhiều, cho đến ngày suy yếu, bốn đại
tiêu mòn, thức tâm không còn minh mẫn, sáu tình giảm ít. Chỉ trong một đời hiện
tại mà vô thường thay đổi, sau không giống trước, kiến thức khi trẻ như bị quên
hết với tuổi già, huống chi nhiều đời cách biệt, thai ấm ngăn che, chưa được đạo
ý, tà hạnh mê lầm, mà mong biết sau khi chết trở lui báo tin. Mong biết việc trước
như vậy, khác nào kẻ xâu kim trong đêm tối, tìm lửa trong nước mà thôi.
Vậy các đệ-tử! Hãy siêng năng thực hành kinh giới, thâm tư nguồn
gốc sanh tử: Từ đâu lại và sẽ về đâu? Nhân gì mà có sự qua lại? Duyên gì mà
phải sanh tử? Suy xét cho kỹ tự tánh vô ngã của các pháp, thì mọi điều nghi ngờ
nhất thời tự giải.
Phật nói kinh nầy rồi, năm trăm Tỷ-Khưu và Ưu-Bà-Tắc, đều được
kiến đạo và các hàng Bồ-Tát đều được bất thoái tam muội. Tất cả đứng dậy,
nhiễu quanh Phật ba vòng, lễ Phật sát đất, lễ xong, theo Phật trở về Tinh-Xá.
|